Duyệt bởi
Author: admin

Bài 18: Tin Cậy Chúa

Bài 18: Tin Cậy Chúa

 

 

Thi Thiên 50:15

Trong ngày gian truân hãy kêu cầu cùng ta: Ta sẽ giải cứu ngươi, và ngươi sẽ ngợi khen ta.

 

Câu Kinh thánh này tóm tắt ý nghĩa của từ tin cậy Chúa một cách đơn giản.

 

Trên thực tế việc tin cậy Chúa đòi hỏi đức tin chân thật và hoàn toàn giao thác nan đề cho Chúa, không nghi ngờ hay lo lắng.

 

Kinh nghiệm cho thấy rằng tin cậy Chúa không dễ.

Câu Kinh thánh trên đây  bảo ta làm một việc xem như rất đơn giản, đó là kêu cầu Chúa.

Dường như không nói thì ai gặp gian truân hay nan đề đều kêu cầu Chúa cả. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng việc kêu cầu trong lúc hoạn nạn khó khăn hơn nhiều. Đây chính là lúc chúng ta suy ngẫm về việc tin cậy Chúa và tìm ra giải pháp cho nan đề.

 

Ta nhận thấy những khó khăn xẩy ra đem đến những hình thức đau thương khác nhau.

Có thể là  trường hợp gây nhức đầu trong một hôn nhân không hạnh phúc hay là bất mãn vì một chuyến sẩy thai hoặc là buồn lo vì một đứa con vô tín hay nổi loạn.

Cũng có thể là ưu tư vì một người lo làm ăn kiếm sống nuôi gia đình bỗng bất ngờ mất việc vì kinh tế chung suy giảm hay một thiếu phụ có con thơ, được bác sĩ cho biết là mắc ung thư nặng.

 

Nhiều người bất mãn vì hi vọng tan vỡ và những giấc mơ không thành. Như một việc thương mại thua lỗ hay một nghề nghiệp không phát triển được. Có người còn chịu nỗi bất công trong xã hội, đau khổ vì cô đơn, hay vì bất ngờ mất đi người thân yêu.

 

Có người hổ nhục vì bị ruồng rẫy, mất chỗ đứng trong xã hội và tệ nhất là tai hại vì lỗi lầm chính mình gây ra. Sau cùng là nỗi tuyệt vọng khi nhận ra rằng hoàn cảnh của mình không thay đổi được, như khuyết tật trong thân thể hay một đứa con bị tật nguyền.

 

Tất cả những hoàn cảnh này và nhiều trường hợp khác đem đến lo âu và buồn khổ mà chúng ta thường phải chịu trong những thời điểm khác nhau và ở các mức độ khác nhau. Có nỗi đau bất ngờ, thảm khốc, và tàn hại. Nhiều khi trường kỳ cố hữu, cũng có lúc dường như xẩy ra làm chúng ta mất hết tinh thần trong một thời gian.

 

Thêm vào những đau thương của bản thân, chúng ta lại còn được kêu gọi quan tâm đến nỗi đau của người khác, của bè bạn hay người thân nữa. Khi bè bạn hay người thân đau khổ chúng ta cũng đau khổ.

 

Trên bình diện rộng hơn, qua báo chí hay truyền hình, chúng ta được biết thế giới không lúc nào là an bình cả, hết chiến tranh lại dịch bệnh và thiên tai. Đó là chưa kể những đe doạ về bom hạt nhân hay đầu đạn nguyên tử tiêu diệt số đông kẻ thù.

 

Ở bình diện nhỏ hơn, nhiều người tránh được những tai ách to lớn nhưng vẫn không khỏi những chuyện bực dọc lặt vặt làm cho mất an bình. Cuộc đời dường như không mấy an vui lắm.

Chính vì cuộc đời nhiều rắc rối và bất mãn mà câu hỏi mới đặt ra:

Có thể tin cậy Chúa hay không?

 

Có người ví sánh cuộc đời như có một tấm màn rất dày giăng trên đường ta đi.  Tấm màn sẽ lùi dần khi ta tiến bước. Không ai có thể nói gì về những gì bên kia bức màn ấy, và không ai có thể nói về những gì sẽ xẩy ra cho  mình trong giờ sắp tới hay ngày hôm sau. Đôi khi màn hé mở cho thấy những sự việc mình mong đợi, nhưng cũng nhiều lúc mở ra những việc ta không ngờ và thường là ta không mong đợi. Những việc như thế trái với điều ta ước mong, thường gây lo âu, bất mãn, đau đầu và buồn thảm.

 

Người tin Chúa không được miễn trừ những đau thương ấy. Có khi xem ra lại còn tệ hơn, thường xuyên hơn, khó hiểu hơn nữa. Trong những lúc như thế, người tin Chúa có thể thắc mắc:

 

Trong hoàn cảnh của tôi hiện nay Chúa ở đâu?

Ta có còn tin cậy Chúa khi khó khăn xẩy ra và gây đau thương không?

Chúa có thực sự đến cứu những người kêu cầu Ngài hay không?

 

Trong nghịch cảnh không dễ tin cậy nơi Chúa. Vì không ai thích đau đớn mà chỉ mong tai qua nạn khỏi cho mau mà thôi. Ngay đến sứ đồ Phao-lô mà cũng từng xin Chúa đến ba lần để được thoát khỏi chiếc gai nhọn đang xóc vào da thịt ông trước khi ân điển Chúa ban để ông có thể tiếp tục sống và phục vụ.

 

Người tin Chúa thường nhận thấy rằng khó tin cậy Chúa hơn là vâng lời Ngài dạy.

Vì ý chỉ của Chúa được dạy trong Kinh Thánh chúng ta thấy rất là hữu lý và dễ chấp nhận. Nhưng những hoàn cảnh xảy ra cho chúng ta thường khó chấp nhận.

 

Vâng lời Chúa là hoạt động bên trong phạm vi ý chỉ Chúa đã được giải bầy rõ. Nhưng tin cậy Chúa là vào một đấu trường không có ranh giới. Vì chúng ta không biết nghịch cảnh có tầm xa, bao lâu, cường độ gây đau thương tới đâu, và phải tin cậy Chúa đến mức nào? Chúng ta thường cứ phải theo hoàn cảnh mà sống.

 

Nhưng chúng ta nên nhớ rằng tin cậy Chúa cũng quan trọng không khác gì vâng lời Chúa dạy.

 

Vì khi chúng ta không vâng theo lời dạy của Chúa là chúng ta thách thức uy quyền của Ngài và coi thường đức thánh khiết của Ngài.

 

Nhưng khi chúng ta không tin cậy Chúa là chúng ta nghi ngờ quyền chủ tể của Chúa và đặt vấn đề về đức thiện lành của Ngài.

 

Cả hai trường hợp kể trên chúng ta đều tỏ ra coi thường oai quyền và đức tính của Chúa.

Trước mắt Chúa thì bất tuân lệnh Chúa hay không tin cậy Ngài đều như nhau.

 

Khi đoàn dân Do-thái không có bánh ăn, họ than phiền như trong Thi Thiên 78:19-22

19. Họ nói nghịch cùng Đức Chúa Trời, Mà rằng: Đức Chúa Trời há có thể dọn bàn nơi đồng vắng sao? 20. Kìa, Ngài đã đập hòn đá, nước bèn phun ra, Dòng chảy tràn; Ngài há cũng có thể ban bánh sao? Ngài há sẽ sắm sửa thịt cho dân Ngài ư?

Hai câu sau cho biết:

21. Vì vậy Đức Giê-hô-va có nghe bèn nổi giận; Có lửa cháy nghịch cùng Gia-cốp, Sự giận nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên; 22. Bởi vì chúng nó không tin Đức Chúa Trời, Cùng chẳng nhờ cậy sự cứu rỗi của Ngài.

 

Bí quyết tin cậy Chúa là luôn luôn nhìn vào nghịch cảnh qua đôi mắt đức tin, chứ không theo cảm xúc.

Rô-ma 10:17 nói rằng: Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng.

 

Đức tin tin cậy Chúa trong nghịch cảnh cũng chỉ đến từ Lời Chúa trong Kinh Thánh chứ không nơi nào khác. Vì chỉ qua lời Kinh Thánh chúng ta mới thấy được quan hệ và sự can thiệp của Chúa vào các hoàn cảnh đau thương của mình. Vì nhờ Thánh Linh đem Lời Chúa áp dụng vào tâm hồn chúng ta mà chúng ta mới nhận được ân điển của Chúa để tin cậy Chúa trong nghịch cảnh.

Trong nghịch cảnh, Lời Chúa dạy chúng ta ba điều về Chúa, đó là:

 

1. Chúa thương yêu tuyệt đối

2. Chúa khôn ngoan vô cùng

3. Chúa hoàn toàn làm chủ

 

Chúng ta có thể tóm tắt là:

Trong thương yêu Chúa luôn luôn muốn điều tốt nhất cho chúng ta.

Trong khôn ngoan, Chúa luôn luôn biết sự việc nào là tốt nhất và

Trong uy quyền chủ tể Chúa có năng lực thực hiện điều đó.

 

Trong mỗi trang của Kinh Thánh đều xác nhận quyền chủ tể của Chúa, dù diễn tả hay hàm ý. Thí dụ như Ca-thương 3:37-38:

37. Nếu chẳng phải Chúa truyền lịnh, ai nói ra và sự việc được thành?

38. Từ miệng Đấng Rất Cao chẳng phát xuất ra tai họa và phước lành hay sao?

Câu Kinh Thánh kể trên làm cho nhiều người thắc mắc, vì khó quan niệm tại sao từ nơi Chúa phát xuất vừa tai ách lại vừa phúc lành. Người ta hỏi rằng: Nếu Chúa là Đấng thương yêu thì sao Ngài có thể giáng tai họa như thế?

 

Nhưng câu nói của Chúa Giê-xu trước tổng trấn Phi-lát ngày xưa, xác nhận quyền chủ tể của Chúa trên cả tai ương.

10. Phi-lát hỏi Ngài rằng: Ngươi chẳng nói chi với ta hết sao? Ngươi há chẳng biết rằng ta có quyền buông tha ngươi và quyền đóng đinh ngươi sao?

11. Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu chẳng phải từ trên cao đã ban cho ngươi, thì ngươi không có quyền gì trên ta; vậy nên, kẻ nộp ta cho ngươi là có tội trọng hơn nữa.

Qua đối thoại này ta hiểu rằng việc Chúa Giê-xu bị xử án và hành hạ là do Đức Chúa Trời chủ động.

 

Đức Chúa Trời đã hi sinh con của Ngài do tình thương muốn cứu vớt nhân loại chúng ta. Chúng ta ít khi nhận thấy rằng Chúa Giê-xu đã chịu một kinh nghiệm đau thương ngoài tưởng tượng của con người chúng ta.

 

Người tin Chúa thay vì thắc mắc về lời Kinh Thánh xác nhận Chúa là Đấng chủ tể cả tai ương lẫn phúc lành, nên tin rằng sự việc nào xẩy ra đều có mục đích cả, chúng ta là loài người không hiểu hết mà thôi.

 

Ê-sai 38:17 có ghi lời vua Ê-xê-chia rằng: Nầy, sự rất cay đắng của tôi đã trở nên sự bình an! Chúa đã yêu thương linh hồn tôi, đem nó ra khỏi hầm hư nát; vì Chúa đã ném mọi tội lỗi tôi ra sau lưng Ngài. Cho thấy rằng Chúa có mục đích tốt lành qua những tai ách Chúa đưa đến.

Tiên tri Giê-rê-mi cũng viết trong Ca-thương 3:32-33 rằng: 32. Dầu Ngài đã làm cho lo buồn, còn sẽ thương xót theo sự dư dật của lòng nhơn từ Ngài; 33. Vì ấy là chẳng phải bổn tâm Ngài làm cho con cái loài người cực khổ và buồn rầu.

Quyền chủ tể của Chúa còn được sử dụng theo sự khôn ngoan vô cùng của Ngài, vượt xa mọi hiểu biết của con người chúng ta. Sứ đồ Phao-lô sau khi nghiên cứu về quyền chủ tể của Chúa trong cuộc giao tiếp với dân Chúa, đã kết luận:

 

33. Ôi sâu nhiệm thay là sự giàu có, khôn ngoan và thông biết của Đức Chúa Trời! Sự phán xét của Ngài nào ai thấu được, đường nẻo của Ngài nào ai hiểu được!  34. Vì, ai biết ý tưởng Chúa, ai là kẻ bàn luận của Ngài?  35. Hay là ai đã cho Chúa trước, đặng nhận lấy điều gì Ngài báo lại?  36. Vì muôn vật đều là từ Ngài, và hướng về Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời, vô cùng! A-men.

 

Lời của sứ đồ Phao-lô đưa chúng ta đến quyết định quan trọng, đó là mỗi người phải hết lòng tin cậy Chúa.

Tuy nhiên muốn tin cậy Chúa, mỗi người cần phải biết Chúa một cách riêng tư và chuyên biệt. Vua Đa-vít đã viết trong Thi Thiên 9:10 rằng: 10. Hỡi Đức Giê-hô-va, phàm ai biết danh Ngài sẽ để lòng tin cậy nơi Ngài; Vì Ngài chẳng từ bỏ kẻ nào tìm kiếm Ngài.

 

Biết danh Chúa là biết thấu đáo về Chúa. Biết Chúa trong kinh nghiệm bản thân chứ không phải chỉ theo đạo. Chính vì lý do này mà Hội Thánh Tin Lành chú trọng đặc biệt về học Lời Chúa và nghiên cứu Kinh Thánh. Mong quý vị mỗi ngày học với chúng tôi để có thể biết Chúa, vâng lời Chúa và hết lòng tin cậy Ngài.

Bài 17: Cầu Nguyện Với Chúa Là Đấng Chủ Tể

Bài 17: Cầu Nguyện Với Chúa Là Đấng Chủ Tể

 

 

Hôm nay chúng ta sẽ nghiên cứu lẽ mầu nhiệm về quyền chủ tể của Chúa, vì khi hiểu rõ uy quyền này, thái độ sống và lời cầu nguyện của chúng ta sẽ thay đổi.

 

Chúng ta sẽ đọc sách tiên tri Đa-ni-ên chương 4.  (Mời bạn mở ra đọc)

 

Chương này bắt đầu là một cuộc đối thoại giữa vua Nê-bu-cát-nết-sa và Đa-ni-ên và kết thúc bằng một mẩu độc thoại của ông vua này. Đa-ni-ên chương 4 liên quan đến một giấc mơ. Vua Nê-bu-cát-nết-sa, hoàng đế Ba-by-luân một đêm nọ nằm mơ và giấc mơ đó khiến cho vua hốt hoảng.  Vua cho gọi tất cả những thầy bói và tiên tri tài giỏi trong nước đến để giải mộng cho vua, nhưng tất cả mọi người đều bó tay, không biết giải đáp ra sao. Cuối cùng vua phải gọi đến một nhà tiên tri Do-thái là Đa-ni-ên.  Đa-ni-ên không những giải mộng được cho vua mà còn có lời khuyên bảo vua nữa.

 

Nê-bu-cát-nết-sa là một người kiêu ngạo và là một kể thống trị tàn bạo, quyền sinh sát mọi người đều trong tay ông ta. Lúc ấy Nê-bu-cát-nết-sa thống trị đế quốc Ba-by-luân, nhưng Đa-ni-ên có can đảm nhìn thẳng vào mặt ông vua này, và cho ông ta biết sự thật liên quan đến giấc mơ lạ thường của ông ta. Khi giải giấc mơ cho vua, Đa-ni-ên đồng thời cảnh báo cho ông vua này về sự thật mà Chúa muốn ông ta phải có thái độ.

 

Xin đọc sách tiên tri Đa-ni-ên chương 4:24-28:

 

24. Tâu bệ hạ, nầy là lời giải, và nầy là mạng lệnh của Đấng Chí Cao, đã truyền đến cho bệ hạ, vua chúa tôi: 25. Người ta sẽ đuổi bệ hạ  ra khỏi loài người, và bệ hạ sẽ ở chung với những thú vật trong đồng. Bệ hạ sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, và sẽ bị thấm nhuần sương móc trên trời; bảy kỳ sẽ trải qua trên bệ hạ, cho đến khi bệ hạ nhận biết rằng Đấng Chí Cao cai trị trong nước loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. 26. Còn như đã truyền rằng chừa lại gốc của rễ cây đó, tức là khi nào bệ hạ đã nhận biết các từng trời cầm quyền, thì nước của bệ hạ chắc sẽ thuộc về bệ hạ. 27. Vậy nên, tâu bệ hạ, xin hãy nghe lời tôi khuyên: hãy lấy sự công chính mà chuộc tội,, hãy thương xót những kẻ nghèo khó để bù lại những điều gian ác của bệ hạ. Như vậy sự bình an của bệ hạ còn có thể lâu dài hơn được..  28. Hết thảy những sự đó đều xảy ra cho vua Nê-bu-cát-nết-sa.

 

Qua lời của Đa-ni-ên, ta thấy có một từ rất quan trọng, đó là nhận biết, hiện đại người ta dùng từ ý thức để thay thế.  Từ này được nhắc lại hai lần, đó là:

 

Cho đến khi bệ hạ ý thức rằng Đấng Rất Cao ai trị trong nước loài người và Ngài ban cho ai tuỳ ý.

 

Lần thứ hai là:

 

Tức là khi nào bệ hạ ý thức là các từng trời cầm quyền.

 

Từng trời đây cũng chính là Chúa, Đấng Chí Cao. Ta có thể ý thức một điều gì đó nhưng không liên quan gì cả. Nhưng ta không thể nào thực sự ý thức điều gì mà không có hành động liên quan hay chấp nhận.

 

Đa-ni-ên bảo vua Nê-bu-cát-nết-sa rằng: Cho đến khi nào bệ hạ ý thức được rằng bệ hạ không phải là đế vương chủ tể, nhưng chính là Chúa. Chính bệ hạ không chế ngự được sinh mạng của bệ hạ, nhưng chính là Chúa, đấng chủ tể và bệ hạ không thể tránh được số phận Chúa dành cho bệ hạ.

 

Qua lời Đa-ni-ên, ta hãy suy nghĩ đến từ Đấng Chủ Tể. Chủ tể trong nghĩa này có hàm ý làm chúa tể toàn quyền hay là hoàn toàn thống trị. Nê-bu-cát-nết-sa cho rằng mình là ông vua thống trị quyền uy nhất trên khắp đế quốc, nhưng Đa-ni-ên sau khi giải mộng cho vua, đã bảo:

 

Chúa đã cho bệ hạ giấc mơ này để bệ hạ nhìn cuộc đời bằng một cái nhìn khác hẳn, đó là: Chúa vĩnh hằng trên trời, Đấng tạo nên chính bệ hạ, không những sinh thành bệ hạ, cho bệ hạ có sinh khí nhưng còn làm chủ cuộc đời của bệ hạ nữa.

 

Đây là những lời mà vị hoàng đế như vua Ba-by-luân khó chấp nhận.

Nhưng ta lưu ý phần miêu tả tiếp theo, câu 29:

Mười hai tháng sau đó, khi vua Nê-bu-cát-nết-sa đang đi dạo trong hoàng cung Ba-by-lôn,

“Mười hai tháng sau đó” nghĩa là đúng một năm trời trôi qua trong thời gian đó Chúa nhẫn nại chờ vua Nê-bu-cát-nết-sa suy nghĩ và nhận định. Vua có thể đặt ra các câu hỏi như: Ta đây quản trị đời mình, hay Đấng Tạo Hóa? Ta làm vua hay Chúa? Chúa thống trị những gì? Vua đã trả lời những câu hỏi trong tâm trí vua như sau:

 

Sau đó mười hai tháng, một hôm vua đi dạo trong hoàng cung Ba-by-luân, 30. và nói rằng: Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao? 31. Lời chưa ra khỏi miệng vua, thì có tiếng từ trên trời xuống rằng: Hỡi Nê-bu-cát-nết-sa, đã báo cho ngươi biết rằng: Ngôi nước đã lìa khỏi ngươi. 32. Ngươi sẽ bị đuổi khỏi giữa loài người, sẽ ở với thú đồng; sẽ bị buộc phải ăn cỏ như bò, rồi bảy kỳ sẽ trải qua trên ngươi, cho đến khi ngươi nhận biết rằng Đấng Rất Cao cai trị trong nước của loài người, và Ngài muốn ban cho ai tùy ý. 33. Trong chính giờ đó, lời nói ấy đã ứng nghiệm cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua bị đuổi khỏi giữa loài người; ăn cỏ như bò; thân thể vua phải thấm nhuần sương móc trên trời, cho đến tóc vua cũng mọc như lông chim ưng, móng vua thì giống như móng loài chim chóc.

 

Nê-bu-cát-nết-sa trở thành một con thú vô tri, sống ngoài đồng.  Vua hoàn toàn ly cách với tri thức và lý luận, và sống như trâu bò trên đồng cỏ vậy. Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt ở đó. Ta tưởng tượng như Đa-ni-ên đưa bút cho vua và bảo, bệ hạ viết nốt câu chuyện đi! Và phần cuối của chương 4 như sau:

 

34. Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia. 35. Hết thảy dân cư trên đất thảy đều cầm như là không có; Ngài làm theo ý mình trong cơ binh trên trời, và ở giữa cư dân trên đất; chẳng ai có thể cản tay Ngài và hỏi rằng: Ngài làm chi vậy? 36. Trong lúc đó, trí khôn phục lại cho ta, ta lại được sự vinh hiển của ngôi nước ta, sự oai nghi chói sáng trở lại cho ta; những nghị viên và đại thần ta lại chầu ta. Ta lại được lập lên trên ngôi nước, và sự uy nghi quyền thế ta càng thêm. 37. Bây giờ, ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ngợi khen, tôn vinh, và làm cả sáng Vua trên trời; mọi công việc Ngài đều chơn thật, các đường lối Ngài đều công chính; và kẻ nào bước đi kiêu ngạo, Ngài có thể hạ nó xuống.

 

Qua những lời của ông vua này ta nhận thấy ông ta nói về: uy quyền của Chúa, nước Chúa, ý định cuả Chúa, tay Chúa, công việc Chúa làm và đường lối của Ngài. Đây là những nhận định mà nhiều khi chính chúng ta không xác nhận và vẫn còn muốn tự quyết định.

 

Cho đến khi nào ta công nhận quyền tể trị của Chúa, thì lúc đó lời cầu nguyện của ta mới thay đổi và hiệu quả sẽ thể hiện. Nhận định về quyền tể trị của Chúa còn giúp ta biết chỗ đứng của mình và được hanh thông. Vua Nê-bu-cát-nết-sa khi hạ mình tôn phục Chúa thì được Chúa phù hộ, ban cho danh vọng còn hơn trước nữa.

 

Vua Sa-lô-môn ngày xưa nói rằng: Lòng của vua ở trong tay Đức Giê-hô-va khác nào dòng nước chảy; Ngài làm nghiêng lệch nó bề nào tùy ý Ngài muốn.  Châm ngôn 21:1.  Người ta thường nói rằng, vua cũng chỉ là người thôi.  Nghĩa là người đứng đầu một nước, có nhiều quyền uy và danh vọng, nhưng không phải là thần linh, mà chỉ là con người tầm thường. Hơn thế nữa, uy quyền và địa vị là do Chúa ấn định, và Chúa điều khiển người cầm đầu một nước không khác gì hướng dẫn một dòng nước.  Chừng nào người cầm đầu một nước biết rõ uy quyền của Chúa,  người ấy phải tôn phục Chúa thì mới mong được thịnh trị và hưởng phúc lành của Chúa ban cho.

 

Hoàn cảnh của thánh nhân Gióp trong Kinh Thánh rất là đặc biệt.  Gióp là người mất tất cả con cái, tài sản, đoàn súc vật, đầy tớ.  Ông mất cả sức khỏe, vì thân hình ghẻ lở từ đầu đến chân. Ông chỉ còn sự sống và bà vợ không mấy gì tử tế với ông. Bè bạn thay vì đến an ủi ông, họ chỉ ngồi lý luận rằng ông xứng đáng gặt những hậu quả mà mình đã gieo. Nhưng Đức Chúa Trời đã trả lời Gióp trong chương 38 trong một cơn gió lốc rằng:

 

1. Bấy giờ, từ giữa cơn gió lốc, Đức Chúa Trời đáp cùng Gióp rằng: 2. Kẻ nầy là ai dám dùng các lời không tri thức, Mà làm cho mờ ám các mưu định ta? 3 Khá thắt lưng người như kẻ dõng sĩ; Ta sẽ hỏi ngươi, ngươi sẽ giải thích cho ta! 4 Khi ta đặt nền trái đất, thì ngươi ở đâu? Nếu ngươi thông sáng, hãy tỏ bày đi. 5. Ai đã định độ lượng nó, Và giăng dây mực trên nó, ngươi có biết chăng? 6 Nền nó đặt trên gì? Ai có chôn hòn đá góc của nó? 7. Trong khi ấy các sao mai đồng hát hòa nhau, Và các con trai Đức Chúa Trời cất tiếng reo mừng. 8. Vả lại, khi biển bể bờ và cất ra khỏi lòng đất, Ai đã lấy các cửa mà ngăn đóng nó lại?  9. Khi ấy ta ban cho nó mây làm áo xống, Lấy tăm tối làm khăn vấn của nó; 10. Ta định giới hạn cho nó, Đặt then chốt và cửa của nó,11. Mà rằng: Mầy đến đây, chớ không đi xa nữa, Các lượn sóng kiêu ngạo mầy phải dừng lại tại đây! 12. Từ khi ngươi sanh, ngươi há có sai khiến buổi sáng, Và phân định chỗ cho hừng đông, 13. Để nó chiếu đến bốn bề trái đất, Và đuổi rảy kẻ gian ác khỏi nó chăng?14. Trái đất biến hình như đất sét dưới dấu ấn, Và mọi vật hiện ra trau giồi như bằng áo. 15. Sự sáng đã cất khỏi kẻ ác, Cánh tay chúng nó giơ lên, đã bị gãy rồi.16. Chớ thì ngươi có thấu đến nguồn của biển sao? Há có bước dưới đáy của vực sâu chăng? 17. Cửa âm phủ há có bày ra trước mặt ngươi chớ? Có thấy các cửa của bóng sự chết chăng?18. Lằn mắt ngươi có thấu đến nơi khoan khoát minh mông của đất chăng? Nếu ngươi biết các điều đó, hãy nói đi. 19. Con đường dẫn đến nơi ở của ánh sáng là đâu? Còn nơi của tối tăm thì ở đâu? 20. Chớ thì ngươi có thế dẫn nó lại vào địa giới nó sao? Có biết các đường lối của nhà nó ở chăng?21. Không sai, người biết mà! Vì ngươi đã sanh trước khi ấy, Số ngày ngươi lấy làm nhiều thay 22. Ngươi có vào các kho tuyết chăng? Có thấy nơi chứa mưa đá, 23. Mà ta đã để dành cho thì hoạn nạn, Cho ngày chiến trận và giặc giã chăng?

 

Với những lời lẽ phán bảo qua một cơn gió lốc, Chúa chỉ muốn cho ông Gióp hay rằng Ngài là Đấng Chủ Tể, quản trị vũ trụ vạn vật. Chúa cầm nắm vận mạng của mỗi người, không có gì qua khỏi ánh mắt Chúa được.

Sau đó ta nghe tiếng ông Gióp phát biểu trong chương 42 câu 1và 2 rằng:

 

1. Gióp thưa với Đức Chúa Trời rằng: 2. Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, Chẳng có ý chỉ nào Chúa có thể bị điều gì ngăn cản được. Đây là một câu kết luận của một loạt những cuộc biện luận có thể kéo dài hằng tháng trời giữa ông Gióp và mấy người bạn uyên bác lý luận. Chúa lúc nào cũng toàn thắng và làm chủ. Làm sao con người nhỏ bé do Chúa sáng tạo có thể biện luận điều gì hay tranh cãi với Đấng vô cùng, vĩnh hằng trong mọi vấn đề?

 

Hiều biết của Chúa là hiểu biết trọn vẹn, biết kết thúc ngay từ ban đầu. Trên trời hay dưới đất không có ai so sánh được với Chúa.

 

Nhưng biết Chúa là Đấng Chủ Tể, vô cùng vĩ đại thì tôi phải có thái độ nào?

 

1. Trước tiên, sự việc Chúa hoàn toàn chủ tể giải thoát tôi khỏi lo âu sợ hãi. Hiểu biết như thế không giải quyết mọi nan đề của tôi, nhưng lấy đi mọi lo lắng và khó chịu. Khi tôi xác nhận chủ quyền của Chúa trong mọi nan đề của tôi, tôi sẽ được an nghỉ.

 

2. Thứ hai, quyền chủ tể của Chúa giải thoát tôi khỏi đòi hỏi giải thích sự việc xẩy ra. Tôi không cần phải tìm mọi giải đáp cho các vấn đề. Tôi có thể nói với mọi người ngay trong cơn khó khăn của tôi rằng: Quý vị biết không, tôi không biết nguyên nhân nào đưa đến sự việc này. Tôi không thể nào biết nổi kế hoạch của Đấng Toàn Năng.

 

Nan đề của chúng ta là khi học biết một chút ít về thần đạo hay về tín lý căn bản, đã vội cho rằng mình có khả năng thăm dò những chuyện bất khả thăm dò. Thực ra phải thành thật đối diện với nan đề và công nhận mình hoàn toàn bất lực. Nhận rằng không thể giải thích được.

 

3. Thứ ba, việc nhận thức về quyền chủ tể tuyệt đối của Chúa khiến tôi tránh được tính kiêu ngạo, và tự mãn. Vì Chúa làm chủ cuộc đời tôi hoàn toàn.

 

Vua Nê-bu-cát-nết-sa ngày xưa đã thấy được điểm ấy qua một giấc mơ và một kinh nghiệm kinh khủng. Ta có thể chưa có những kinh nghiệm để nhận được cái biết như thế cho đến khi gặp Chúa. Nhưng ta phải tin rằng Chúa, một mình Chúa làm chủ tất cả, và kế hoạch của Chúa bao giờ cũng đúng và không ai lay chuyển được.

 

Thưa quý vị và các bạn, chúng ta cảm ơn Chúa vì trong cuốn Kinh Thánh mà chúng ta cầm trên tay có ghi lại câu chuyện hoàng đế Ba-by-luân biết được Chúa là ai và thánh nhân Gióp sau hoạn nạn kinh khủng cũng xác nhận Chúa là Đấng nắm trọn số phận và cuộc đời của mỗi người.

 

Lời cầu nguyện của mỗi chúng ta trước Đấng Toàn Năng, Toàn Tri, Toàn Thiện sẽ như thế nào để ân sủng của Ngài xứng đáng cho chúng ta nhận và chúng ta hân hoan ca ngợi tôn vinh Ngài, vì Chúa bằng lòng đối thoại với chúng ta.

Bài 16: Cầu Nguyện Khi Thất Vọng

Bài 16: Cầu Nguyện Khi Thất Vọng

 

 

 

 

Thi Thiên 42 và 43 ghi rằng:

 

1. Đức Chúa Trời ôi! linh hồn tôi mơ ước Chúa, Như con nai cái thèm khát khe nước. 2. Linh hồn tôi khát khao Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời hằng sống: Tôi sẽ đến ra mắt Đức Chúa Trời chừng nào? 3. Đương khi người ta hằng hỏi tôi: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì nước mắt làm đồ ăn tôi ngày và đêm. 4. Xưa tôi đi cùng đoàn chúng, Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời, Có tiếng reo mừng và khen ngợi. Một đoàn đông giữ lễ; Rày tôi nhớ lại điều ấy, và lòng buồn thảm. 5. Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn ngợi khen Ngài nữa; Vì nhờ mặt Ngài, bèn được cứu rỗi. 6. Đức Chúa Trời tôi ôi! linh hồn tôi bị sờn ngã trong mình tôi; Nên từ xứ Giô-đanh, Từ núi Hẹt-môn, và từ gò Mít-sê -a, tôi nhớ đến Chúa. 7. Vực gọi vực theo tiếng ào ào của thác nước Chúa; Các lượn sóng và nước lớn của Chúa đã ngập tôi. 8. Dầu vậy, ban ngày Đức Giê-hô-va sẽ sai khiến sự nhơn từ Ngài; Còn ban đêm bài hát Ngài ở cùng tôi, Tức là bài cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời của mạng sống tôi. 9. Tôi sẽ thưa cùng Đức Chúa Trời, là hòn đá tôi, rằng: Cớ sao Chúa quên tôi? Nhơn sao tôi phải buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi? 10. Trong khi những cừu địch tôi hằng ngày hỏi rằng: Đức Chúa Trời ngươi đâu? Thì chúng nó sỉ nhục tôi khác nào làm gãy xương cốt tôi. 11. Hỡi linh hồn ta, cớ sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn khen ngợi Ngài nữa: Ngài là sự cứu rỗi của mặt ta, và là Đức Chúa Trời ta.

Thi Thiên 43

1. Đức Chúa Trời ôi! xin hãy đoán xét tôi, và binh vực duyên cớ tôi đối cùng một dân vô đạo; Hãy giải cứu tôi khỏi ngươi dối gạt chẳng công bình. 2. Vì, Đức Chúa Trời ôi! Chúa là sức lực tôi; cớ sao Chúa đã từ bỏ tôi? Nhơn sao tôi phải ở buồn thảm Vì cớ kẻ thù nghịch hà hiếp tôi? 3. Cầu Chúa phát ánh sáng và sự chơn thật của Chúa ra: Nó sẽ dẫn tôi, đưa tôi đến núi thánh và nơi ở của Chúa. 4. Bấy giờ tôi sẽ đi đến bàn thờ Đức Chúa Trời, Tức đến cùng Đức Chúa Trời, là sự rất vui mừng của tôi: Hỡi Chúa, là Đức Chúa Trời tôi, tôi sẽ lấy đờn cầm mà ngợi khen Chúa. 5. Hỡi linh hồn ta, cớ sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong mình ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta sẽ còn ngợi khen Ngài nữa: Ngài là sự cứu rỗi của mặt ta, và là Đức Chúa Trời ta.

 

 

Câu được nhắc đi nhắc lại trong hai Thi Thiên vừa đọc là câu hỏi: Hỡi linh hồn ta, cớ sao người sờn ngã và bồn chồn trong mình ta?  Bản Kinh Thánh Công giáo dịch là: Hồn ta hỡi, cớ sao phiền muộn, xót xa phận mình mãi làm chi? Thường thì người Việt chúng ta không tự đặt câu hỏi như thế trong tư tưởng của mình, nhưng cảm biết linh hồn bất an và cần làm cái gì hay cần được cứu giúp. Đời thường gọi là than thân trách phận.

 

Các nhà tâm lý cho hay rằng người ta than thân trách phận là vì tự ty mặc cảm, một tâm lý hổ thẹn, thu mình lại khiến cho đương sự cho rằng mình không đủ tư cách hay khả năng. Thường thi người như thế nghi ngờ chính mình và vật lộn với ý nghĩ, với mặc cảm đó mãi cho đến khi suy yếu và tuyệt vọng. Một cậu trai kia có lần chơi dưới sông, bị hụt chân và nước xoáy gần chết đuối, may có người lớn kéo lên được.  Từ đó rất sợ nước, và không bao giờ xuống sông, hồ hay biển nữa. Khi lớn lên vẫn giữ như vậy.  Nếu có ai rủ xuống nước, anh ta viện cớ là không muốn vì nước sâu, và sợ nguy hiểm.  Thật ra là vì mặc cảm tự ty. Nhiều người sống trên đời với nhiều mặc cảm như thế, không phải chỉ sợ nước, nhưng sợ rất nhiều thứ, kể cả dư luận của người ta. Cũng vì vậy mà có thái độ tuyệt vọng và chán nản.

 

Tâm lý gia gọi những trường hợp bất an và chán nản như thế là những cơn sóng hay là thủy triều lên xuống trong đời. Thuỷ triều là hiện tượng thiên nhiên lên xuống theo quy luật của tạo hóa. Những cơn sóng chán nản hay tuyệt vọng trong tâm hồn con người nhiều khi cũng theo chu kỳ nào đó tùy theo tính khí của mỗi người. Không ai lúc nào cũng vui vẻ an bình cả đâu. Vì vậy người ta hay than: tôi có lúc thế này, lúc thế khác.

 

Những người đi câu ngoài biển thường theo những thời khóa biểu mà các chuyên gia đưa ra để biết phải câu lúc nào cá mới hay cắn.  Có người bảo rằng, có thể lập ra một thời khóa biểu cho con người chúng ta nữa, vì có khi chúng ta cảm thấy thích hoạt động thì mới nên đưa vào những kế hoạch lợi dụng những giờ giấc đó. Một mục sư nhận thấy rằng một số tín hữu thích tham gia vào một số chương trình trong nhà thờ chỉ vì thích hợp với tâm lý hoạt động của họ trong giờ giấc đó. Thế rồi mục sư phải hoạch định các buổi học hay huấn luyện đúng vào những giờ mà nhiều người đáp ứng hơn, như vậy mới có hiệu quả.

 

Nhưng  vấn đề không phải là những cơn sóng lên xuống bình thường trong tâm linh con người. Vì nan đề xẩy ra là khi chúng ta lâm vào những giai đoạn chán nản tuyệt vọng thật sâu, và dường như không bao giờ trở lại bình thường được nữa.

 

Người lái máy bay cho hay rằng, việc nguy hiểm nhất trong lúc bay là mất hẳn hướng, vì vậy phải biết rút lui khi vào chỗ nguy hiểm.

 

Khi lâm vào tình trạng chán nản tuyệt vọng, phải giữ sao cho đừng mất phương hướng của cuộc đời. Muốn tránh mất phương hướng ta phải lưu ý về bốn điểm sau đây:

 

1.      Đừng bao giờ quên rằng bạn rất là quan trọng.

Vì không có người nào được tạo nên theo hình ảnh của Chúa mà lại vô dụng cả. Có thể là bạn chưa tìm ra nơi nào trong đời sống mà mình thích nhất, cuộc đời của bạn dường như không có gì đặc biệt.  Nhưng nên nhớ rằng Chúa đã phú cho bạn một cá tính riêng mà không ai trùng lặp. Bạn được sinh ra để sống trong hai thế giới, một thế giới hiện tại, và một thế giới tương lai. Thi thiên chuơng 8 ghi rằng: Bạn được tạo nên kém thiên sứ một bậc, nhưng đã được đội cho vương miện vinh quang và danh dự.

 

Vì bạn là ai và bạn làm gì, bạn có thể tự tin và nương cậy vào chính mình. Bạn dễ bất mãn khi nương dựa vào người khác, nhưng khi nào bạn sống quân bình trên đôi chân của mình, thì bạn cảm thấy mình độc lập. Nếu Chúa muốn bạn bắt chước người nào đó, thì chắc hẳn Chúa đã không tạo nên bạn. Đừng bao giờ quên rằng bạn là người Chúa tạo nên và Ngài cần đến bạn.

 

2. Nhiều lần trong đời sống, linh hồn bạn sờn ngã và chán nản, nghĩ rằng mình đã mất tất cả, xin nhớ rằng, người ta vẫn cần đến bạn. Ít ra cũng có một công việc nào đó không thể hoàn tất được, nếu không có sự tham gia của bạn. Mỗi chúng ta đều có thể đóng góp vào một công việc nào đó. Nhiều người hiện đóng góp vào những việc kém cỏi ngoài khả năng của mình, và cho là nhỏ nhoi không đáng.  Nên nhớ, Chúa Giê-xu nói rằng: …các ngươi quý trọng hơn những con chim sẻ nhiều. Ma-thi-ơ 10:31. Thảm kịch là có nhiều người chưa đóng góp vào đời, vào công việc Chúa bằng con chim sẻ.  Vì họ chỉ ăn, ngủ, và làm những chuyện bình thường để sống. Trong những lúc chán nản, xin hãy nghĩ đến những điều mà đời sống ta có thể làm nổi.

 

3.  Khi bạn buồn chán, nên nhớ rằng trong bạn dường như có mấy con người vậy. Bạn là người thiện lành, nhưng bạn cũng là người xấu. Bạn rút lui vào nơi ẩn náu, nhưng bạn cũng đối đầu với tình huống khó khăn với bình tĩnh và can đảm. Bạn vừa bị cám dỗ để vùi lấp vào vũng bùn tuyệt vọng, nhưng bạn vẫn có thể với lên tận những ngôi sao xa vời. Bên trong bạn có con người vô tâm vô tình, nhưng lại có một con người khác đầy tham vọng và ích kỷ. Rồi lại có con người sống theo cảm xúc, và còn vài con người khác nữa. Nhưng nên nhớ rằng bên trong bạn luôn luôn có một cái tôi mà bạn cho là tốt nhất. Trên tất cả, bạn là người cầm nắm tất cả những con người phức tạp ấy. Như một ông vua cai quản một nước vậy. Nhưng đôi khi ta để cho một trong những con người này cầm quyền và ta mất quyền kiểm soát. Châm ngôn có câu: “Người chậm nóng giận thắng hơn người dũng sĩ, và ai cai trị lòng mình thắng hơn kẻ chiếm lấy thành.” Châm ngôn 16:32

 

Như thế khi nào bạn bất ngờ sinh ra chán nản và tuyệt vọng có nghĩa là bạn buông thả một con người bên trong bạn, để cho nó kiểm soát bạn.  Bạn cần phải chỗi dậy xác nhận quyền làm chủ của mình.  Đừng bỏ cuộc, bạn có thể làm được điều hữu ích cho chính mình mà.

 

4. Tác giả Thi Thiên bảo làm cách nào thoát ra khỏi tình trạng cảm xúc chán nản tuyệt vọng. Đó là đặt hy vọng nơi Chúa. Khi bạn tin Chúa, bạn hy vọng nơi Chúa. Như mặt trời đẩy những đám mây đen đi, hy vọng cũng dẹp tan những nỗi buồn thảm trong tâm hồn.

 

Khi Chúa Giê-xu ở trần gian, Ngài có người bạn thân là Giăng, người làm báp tem. Hai người thật ra là bà con với nhau và sinh ra trước sau vài tháng, nên rất là thân tình. Một hôm nọ Chúa hay tin Giăng bị chém đầu trong tù vì ngăn cản vua Hê-rốt làm điều ô nhục. Dĩ nhiên là một tin tức như thế làm cho Chúa buồn và chán nản biết mấy. Chúa làm gì? Ma-thi-ơ 14:23 viết: “…Ngài lên núi để cầu nguyện riêng; đến chiều tối Ngài ở đó một mình.”

 

Trên một chuyến máy bay vượt biển. Đang yên lặng bỗng tiếng người phi công trưởng vang lên trên hệ thống phóng thanh: “Xin chú ý, máy bay chúng ta đang vào một vùng có nhiều dao động, xin quý vị cài dây an toàn.  Chúng ta đang bay ở cao độ 15 nghìn thước.  Chúng ta sẽ lên cao đến 21 nghìn thước cho được an toàn hơn.” Thế rồi chiếc máy bay 747 bay vượt qua chỗ không khí dao động và lên cao, thoát cơn bão và an toàn. Khi chúng ta gặp những cơn bão dao động trong đời, điều nên làm là ngưng tất cả và hướng lên Chúa trên trời đề cầu nguyện, đừng chôn vùi trong những khó khăn của trần gian này. Đó chính là việc Chúa Giê-xu làm khi nghe tin người bạn của mình bị thảm sát. Chúa cũng làm như thế khi chính sự sống của Ngài bị đe dọa và khó khăn ngập đến.  Chúa vào vườn Ghết-sê-ma-nê quỳ gối một mình cầu nguyện cùng Cha. Khi một người đã nắm chặt được tay của Cha trên trời, thì người ấy có sức mạnh và năng lực tuôn đổ từ trời và giữ người ấy đứng thẳng lên được.

 

Một kim loại tên là permaloy, là một kim loại có từ tính rất cao, nhưng lại rất lạ. Khi đặt miếng kim loại đó ở một hướng nào đó, sẽ không thấy nó có từ tính gì cả. Nhưng khi đặt kim loại permaloy ngay trên dòng từ lực của trái đất thì từ lực trong kim loại ấy rất mạnh. Tương tự như thế, khi ta ở bên ngoài sức hút của quyền năng siêu việt từ trời, ta sẽ không có sức mạnh, ta sẽ bị xa rời và tuyệt vọng. Đó chính là lúc mà ta chán nản và ngã lòng. Nhưng khi cuộc sống của ta đặt vào đúng chỗ tương giao với Chúa quyền năng, ta sẽ có khả năng vươn tới, nắm bắt và chiến thắng.

 

Chúa quyền năng muốn chúng ta bước đi trên trần gian này như những con người không co rút, không rụt rè sợ hãi cuộc đời bao giờ. Nhưng ta nên nhớ rằng đức tin phải xác nhận bằng hành động. Nhiều khi hình thức cầu nguyện cao nhất là lấy đức tin mà hành động.

 

Khi nào bạn cảm thấy hiện diện của Chúa và linh hồn bạn được đảm bảo, đó chính là lúc hành động. Có thể lắm bạn chỉ thấy một bước phía trước mặt, nhưng nếu bạn bước đi bước thứ nhất đó, bạn sẽ thấy tâm hồn bạn khác hẳn và có sức tiến tới.

 

Linh hồn sờn ngã và bồn chồn không thể nào sống trong một con người đã thưa trình chuyện mình với Chúa và đã bắt tay vào việc. Những sức mạnh sẽ tuôn đổ từ trời cho những ai can đảm dám nắm vào tay Chúa mà tiến bước.

Bài 15: Cầu Nguyện Khi Còn Nhiều Ân Hận

Bài 15: Cầu Nguyện Khi Còn Nhiều Ân Hận

 

 

Thông thường người ta gặp bốn nan đề thuộc về cá nhân, đó là sợ hãi, mặc cảm có tội, chủ quan và không thể quên.

 

Trong bốn nan đề này thì vấn đề không thể quên là khó giải quyết nhất.

Thí dụ như trường hợp sau đây: Một thiếu phụ mất mẹ gần đây nên rất buồn, không sao giải khuây được. Nhưng sau khi tâm vấn với mục sư, cô ấy cho biết rằng hiện nay vì mẹ tin Chúa nên đã an nghỉ trong Chúa, cô không lo gì về mẹ cả. Nhưng cô vẫn ray rứt là vì thái độ của cô đối với mẹ trong những năm tháng sau cùng.  Cô ân hận là mình đã không tử tế hơn và giúp mẹ tận tình hơn. Bây giờ cô rất hối tiếc và buồn không thể cứu vãn được nữa, vì mẹ đã qua đời.

 

Chúng ta có những sự việc muốn quên đi, nhưng lại không quên được, chính vì thế mà một số các sự việc này trở thành gánh nặng không thể giải quyết được. Trong Kinh Thánh chúng ta có thể tìm được giải pháp ở Phi-líp 3:13-14 như sau:

 

Hỡi Anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ.

 

Ngoài ra ta cũng có thể theo gương chứng của 11 môn đồ của Chúa Giê-xu khi xưa. Thật ra họ có 12 người, nhưng một người đã phản Chúa, đang tâm bán Ngài để lấy tiền, về sau ông ta hối hận đã đi tự tử. Mười một môn đồ kia sau đó đã họp lại bàn bạc về tương lai của họ. Câu chuyện của họ có thể như sau, một người phát biểu:

 

Hồi ấy tôi đang làm nghề chài lưới, kiếm ăn cũng khá, mục đích là để trả cho xong nợ về chiếc thuyền, thì bỗng Chúa Giê-xu đến gặp tôi và gọi tôi đi theo Ngài. Tôi tin rằng nhân danh Chúa mà chinh phục được thế gian này thì việc hi sinh tài chính không đáng kể.  Nhưng bây giờ tôi mất tất cả.

 

Một người khác tiếp theo:

Còn tôi, lúc ấy trong nghề thu thuế tôi rất là thịnh vượng, chỉ một năm nữa thôi là tôi rất vững vàng về tài chính.

 

Những người khác lần lược góp ý, đa số nhắc lại việc họ đã quyết định bỏ hết nghề nghiệp để phiêu lưu vào đức tin, để bây giờ mất tất cả,  không còn gì để gầy dựng lại.

 

Mười một môn đệ lúc ấy thật buồn và hổ thẹn.  Ma-thi-ơ ghi lại hành động của họ khi Chúa bị bắt và đưa ra xét xử:  Khi ấy, hết thảy các môn đệ bỏ Ngài mà trốn đi.  Ma-thi-ơ 26:56.  Thường thì khi một sự cố xẩy ra, dù thất bại, nhưng nếu ta đã cố gắng hết sức mà việc vẫn hỏng thì không đến nỗi hổ thẹn, nhưng nếu ta bỏ chạy, trốn việc thì việc xẩy ra làm ta cay đắng và ân hận. Nhiều người từng hiểu thái độ của các môn đệ Chúa lúc ấy qua kinh nghiệm của chính mình.

 

Mười một người tụ họp trong một căn phòng quen thuộc, buồn và tủi nhục, vì Chúa của họ đã bị hành hình. Họ bảo nhau đóng kín cửa lại và nói nhỏ để giữ an ninh. Bên ngoài hành lang bất cứ tiếng động nào cũng làm cho họ run sợ. Họ muốn ra khỏi nơi ấy để bắt đầu lại cuộc đời nhưng vẫn sợ không dám thử.

 

Nhiều người ngày nay cũng có nỗi sợ như các môn đệ Chúa khi xưa. Những người này sau khi thất bại trong trường hợp nào đó, đang cảm thấy hổ thẹn và sợ không dám bước tới nữa. Những người này mất ý chí quyết định, mất cả can đảm. Vì sợ nên co rút mình trong cái vỏ sò nào đó và buông ra, không dám vào cuộc nữa.

 

Các môn đệ ngày xưa không những tuyệt vọng, hổ nhục và sợ hãi vì đã thất bại, họ còn cảm thấy bị Chúa bỏ nữa. Họ đã từng sống với Chúa trong nhiều tháng ngày, từng thân thương với Chúa. Nhớ lại những chuyện xẩy ra như lúc Chúa lên tiếng dẹp yên giông bão, và sự có mặt của Chúa làm cho nỗi lo sợ và nhọc nhằn tan biến. Họ nhớ những lời Chúa an ủi, dạy bảo, quở mắng. Nhớ đến tác phong và con người đầy ân hậu của Chúa. Họ biết cả kế hoạch Ngài vạch ra cho trần gian này.  Nhưng bây giờ Chúa đã chết.

 

Có người gặp chúng tôi, nói rằng: “Tôi không thể cầu nguyện được nữa.” Hỏi tại sao thì ông ta ngồi yên lặng một lát và nước mắt tràn đôi má. Ông ấy kể mẹ ông ấy đã dạy cho cầu nguyện trước khi nằm xuống ngủ. Ông ấy cũng muốn gia nhập hội thánh và sinh hoạt. Ngày trước hai vợ chồng còn có  giờ cầu nguyện chung nữa. Rồi ông ấy bảo: “Nhưng bây giờ tôi đã mất Chúa rồi !”

 

Ngày xưa vua Đa-vít cũng từng lầm đường lạc lối. Sau khi phạm tội, vua nhìn lại việc làm của mình với hổ nhục và hối tiếc, vua biết rằng mình đã mất Chúa. Vua đã ăn năn hối lỗi qua những lời ghi lại trong Thi Thiên 51, như sau:

 

1. Đức Chúa Trời ôi! xin hãy thương xót tôi tùy lòng nhơn từ của Chúa; Xin hãy xóa các sự vi phạm tôi theo sự từ bi rất lớn của Chúa. 2. Xin hãy rửa tôi cho sạch hết trọi gian ác, Và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi. 3. Vì tôi nhận biết các sự vi phạm tôi, Tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi. 4. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, Và làm điều ác trước mặt Chúa; Hầu cho Chúa được xưng công bình khi Chúa phán, Và được thanh sạch khi Chúa xét đoán. 5. Kìa, tôi sanh ra trong sự gian ác, Mẹ tôi đã hoài thai tôi trong tội lỗi. 6. Nầy, Chúa muốn sự chơn thật nơi bề trong; Chúa sẽ làm cho tôi được biết sự khôn ngoan trong nơi bí mật của lòng tôi. 7. Xin hãy lấy chùm kinh giới tẩy sạch tội lỗi tôi, thì tôi sẽ được tinh sạch; Cầu Chúa hãy rửa tôi, thì tôi sẽ nên trắng hơn tuyết, 8. Hãy cho tôi nghe sự vui vẻ mừng rỡ, Để các xương cốt mà Chúa đã bẻ gãy được khoái lạc. 9. Xin Chúa ngảnh mặt khỏi các tội lỗi tôi, Và xóa hết thảy sự gian ác tôi. 10. Đức Chúa Trời ôi! xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng.11. Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa, Cũng đừng cất khỏi tôi Thánh Linh Chúa. Thi Thiên 51:1-11.

 

 

Bài cầu nguyện ăn năn xưng tội của Vua Đa-vít đáng cho chúng ta đọc và cầu nguyện theo nếu tâm sự cũng tương tự như vây.

 

Các môn đệ của Chúa nếu cứ để những hình ảnh xấu xa, hổ nhục, thất bại trước mắt thì họ sẽ bị thua vì tuyệt vọng, nhục nhã, lo sợ và mặc cảm bị Chúa bỏ. Họ muốn quên đi tất cả, nhưng làm sao bây giờ? Vì nói rằng: “Tôi sẽ quên đi hết!” cũng chẳng giúp gì được. Nhưng phương pháp của sứ đồ Phao-lô là:

 

Hỡi Anh em, về phần tôi, tôi không tưởng rằng đã đạt đến mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lửng sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. Phi-líp 3:13-14

 

Muốn quên quá khứ thì nguyên tắc là phải có gì trước mặt và tương lai để tiến bước. Tất cả đều khởi đầu với đức tin. Đức tin giúp ta thắng sợ hãi, tình thương thắng hận thù, và những hành động tích cực đánh bại thất bại trong quá khứ.  Nhiều người sống mãi với quá khứ, ôn đi ôn lại những gì đã xa, không rời bỏ mà còn tìm thêm ra những chi tiết, những câu nói những việc làm, khiến cho quá khứ vẫn sáng rực trong tâm hồn mình, và cuối cùng bị quá khứ làm cho ngã gục trong đau thương và hổ nhục. Nhưng nhiều người khác noi gương Phao-lô, bỏ mọi sự trong quá khứ lại phía sau, bươn lên như lực sĩ chạy đua giật lấy giải thưởng vinh quang và đắc thắng.

 

Mười một môn đệ đang hoang mang và tuyệt vọng trong một căn phòng đóng kín cửa, thì Chúa hiện ra đứng ngay giữa họ. Chúa chào họ bằng một câu quen thuộc: Sa-lôm, nghĩa là Bình an cho các anh em. Sau đó Chúa cho họ xem hai bàn tay và chân Chúa với những vết thương do đinh đón vào chưa lành. Chúa cho họ biết rằng Chúa đã sống lại, Chúa không bị thua bại, nhưng đắc thắng tử thần vinh quang và thật sự đứng trước mặt họ bằng xương bằng thịt chứ không phải huyền thoại. Chúa không hề nói gì đến thất bại, đến cuộc bỏ Chúa trốn chạy của họ. Chúa muốn cho họ quên hết để bắt đầu lại. Vì quá khứ đã chấm dứt và chỉ còn một điều nên làm là quên hết.

 

Trở lại với những hoàn cảnh thực tế của quý vị đang đọc bài này.  Thưa quý vị, những gì đã qua không thể cứu vãn, nhưng phải lập kế hoạch cho hiện tại và tương lai.  Chúa Giê-xu ở lại với các môn đệ 40 ngày để dạy họ tiến bước vào tương lai.  Chính bài học này đã thay đổi hẳn nhưng người tưởng chừng bỏ cuộc, đã thành nhân chứng cho Chúa Cứu Thế, và nhờ họ, Tin Lành được loan truyền cho đến 21 thế kỷ nay và chúng ta đang tiếp nối.  Chúng ta cũng cần được gặp Chúa cách riêng tư và xin Lời Chúa dạy chúng ta những bước sắp tới để chúng ta hướng về tương lai mà sống và làm danh Chúa được vinh quang, nước Chúa thêm rộng mở và vô số người được vào cõi vĩnh hằng.

Bài 14: Cầu Nguyện Khi Bất Mãn

Bài 14: Cầu Nguyện Khi Bất Mãn

 

 

Bất mãn là một tình trạng mà trong sâu kín mỗi tâm hồn đều có thấy. Những ai thành công nhất trên đời cũng vẫn có những giấc mơ chưa bao giờ thực hiện hay là những hi vọng không bao giờ đạt đến. Có người tránh những điều mình ước muốn trong những chương trình hay kế hoạch hoặc việc làm, một số những điều hi vọng trông mong dần dần tan biến đi. Nhưng nếu ai không học cách xử sự với nỗi bất mãn thì cuộc đời dần dần hóa ra chua chát và không còn thú vị gì nữa.

 

Một người tin Chúa từng nói rằng: Tôi đã học cách biến bất mãn của tôi thành ra bất mãn của Chúa.

 

Thái độ ấy không phải là vào những lúc đối diện với thảm cảnh, ta đứng yên khoanh tay nói rằng: Thôi thì ý muốn Chúa như thế tôi cũng đành chịu chứ làm sao bây giờ? Vì có thể cái bất mãn của ta chính là ý của Chúa thì sao?  Nhưng như thế cũng không phải là ta co mình ẩn trốn trong đó và ngưng lại tất cả.

 

Sứ đồ Phao-lô dạy:

Vậy nên, hãy lấy mọi khí giới của Đức Chúa Trời, hầu cho trong ngày khốn nạn, anh em có thể cự địch lại và khi thắng hơn mọi sự rồi, anh em được đứng vững vàng. Ê-phê-sô 6:13.

 

Câu này không bảo ta ..và khi thắng mọi sự rồi, thì bỏ hết, chấm dứt. Nhưng ra lệnh: hãy đứng vững vàng. Như thế nghĩa là tiếp tục hành động.  Lúc ấy ta đang tiến bước trên một hành trình, bỗng trở ngại làm cho phải ngưng lại. Dường như Chúa bảo: Ta không thể để cho con đi về hướng đó.  Nhưng đó chưa phải là lệnh sau cùng của Chúa, Ngài có thể bảo: Ta có một lối khác cho con đi.  Vì kế hoạch của Chúa không bao giờ đi đến một đường cùng. Chúa có thể ngăn chặn đường, nhưng lại mở cho lối đi khác.

 

Victor Hugo là nhà văn lớn của Pháp, khi bốn mươi tám tuổi ông bị đày đi hải đảo Guernsey và sống ở đó trong suốt 20 năm. Đó thực là một giai đoạn cực kỳ bất mãn cho nhà văn, nhưng cũng tại hải đảo này, ông đã viết tác phẩm Les Misérables tức là Những kẻ khốn cùng là một tác phẩm văn chương quý của thế giới. Không có những năm bất mãn đó, chắc gì ta đã có tác phẩm đó. Nhưng khi nào tai nạn chấm dứt và đức quan phòng của Chúa bắt đầu không ai biết được.

 

Có người nói rằng cuộc đời mỗi người là một cuốn nhật ký để người ấy viết một câu chuyện, và bị ép buộc viết một câu chuyện khác nữa. Nghĩa là mình kế họach theo đường này lại bị bắt buộc đi một con đường khác. Trong hành trình của Sứ đồ Phao lô có mấy lần phải đổi hướng. Trong thư La-mã 15:24 ông viết: 24 vậy nếu tôi có thể đi xứ Tây-ban-nha được, thì mong rằng sẽ tiện đường ghé thăm anh em; sau khi được chút thỏa lòng ở với anh em rồi, thì nhờ anh em sai đưa tôi qua xứ ấy. Sang thăm Tây-ban-nha là giấc mơ và kế hoạch ông đặt ra, nhưng ông bị bắt và bị giải sang La-mã để chờ án tòa. Thay vì đến một nơi xa và hứa hẹn nhiều gặt hái vinh quang cho Chúa, Phao-lô bị đưa vào nhà tù và bị xét xử và tử hình sau nhiều năm giam hãm.

 

Nhiều khi chúng ta khó hiểu vì sao Chúa lại đưa sứ đồ Phao-lô vào tù. Nhưng thay vì oán trách Chúa và hoàn cảnh, ông đã viết:

 

Hỡi anh em, tôi muốn anh em biết rằng điều xảy đến cho tôi đã giúp thêm sự tấn tới cho đạo Tin Lành, 13 đến nỗi chốn công đường và các nơi khác đều rõ tôi vì Đấng Christ mà chịu xiềng xích. 14 Phần nhiều trong anh em nhơn tôi bị xiềng xích mà có lòng tin rất lớn trong Đấng Christ, dám truyền đạo Đức Chúa Trời chẳng sợ hãi gì. Phi-líp 1:12-14.

 

Chúng ta có thể nghĩ rằng khi ở tù Sứ đồ Phao-lô đã làm chứng cho một vài người lính gác, chẳng đáng bao nhiêu. Chúa dùng Phao-lô về nhiều việc khác mà không ai có thể hiểu được. Mỗi khi mở Kinh Thánh Tân Ước, các bạn có để ý bao nhiêu lá thư trong đó do sứ đồ Phao-lô viết hay không? Kinh Thánh Tân ước có 21 cuốn, trong đó sứ đồ Phao-lô đã viết 10 cuốn, và đa số là viết trong lúc ngồi tù tại La-mã. Chúa muốn Phao-lô không di chuyển nữa, vì ông không có thời gian ngồi viết, vì vậy mà ông bị giam giữ tại La-mã và yên lặng viết 10 bức thư hay tác phẩm của Kinh Thánh Tân ước. 10 tác phẩm của Phao-lô viết trong tù, đã là căn bản cho tín lý Cơ-đốc trong suốt hơn 2000 năm qua và đem đến ánh sáng cho hằng triệu người nhờ nghe giảng dạy các sách đó. Phao-lô có thể bất mãn vì bị tù, nhưng ông không biết rằng Chúa muốn ông dùng tâm trí và khả năng để viết nên Kinh Thánh cho nghìn đời sau có người được cứu nhờ các lời Kinh Thánh đó.

 

Năm 1928, cố Mục sư Phan Đình Liệu bị thực dân Pháp bắt giam vì giảng truyền Tin Lành cho đồng bào, nhưng khi ngồi tù, ông đã làm chứng về Chúa cho các tù nhân, và 12 người đã tin Chúa. Cũng vì việc nhà cầm quyền thực dân Pháp lúc đó kỳ thị đối với Tin Lành mà các mục sư người Pháp đã trình lên chính phủ Pháp, và quốc hội lúc đó đã nhất quyết ra lệnh phải để các mục sư Tin Lành người Mỹ cũng như người Việt được tự do truyền giáo. Việc Mục Sư Liệu bị tù đã trở thành lý do mà người Pháp không áp chế Tin Lành được nữa.

 

Nhưng không phải mọi trường hợp bất mãn đều đưa đến các hậu quả tốt đẹp thuận lợi cả đâu. Vì bất mãn dường như là điều mà con người phải chịu, phải sống với như tật nguyền trong thân xác hay tật bệnh vậy. Ta phải có thái độ nào?

 

Ta phải suy nghĩ sâu xa hơn những câu chuyện thành công vừa kể. Phải đến tận đồi Gô-gô-tha ngày xưa và chiêm nghiệm về thập tự giá.  Vì không có thập giá Chúa Giê-xu đã không thể trở thành Chúa Cứu Thế.  Khi ta gặp cảnh bất mãn đau thương trong đời, hãy nghe lời kêu gọi của Chúa Giê-xu từ nghìn xưa để lại, đó là:  Còn ai không vác thập tự giá mình theo ta, cũng không được làm môn đồ ta. Lu-ca 14:27. Chúng ta cần kiên nhẫn chịu đựng và tìm ra ý chỉ của Chúa trong những nỗi bất mãn của mình. Thập tự giá nhiều khi không bằng gỗ, nhưng bằng những chướng ngại trong đời sống của chúng ta.

 

Ta cũng có thể noi gương Phao-lô trong câu chuyện chính ông kể lại như sau:

 

1 Tôi cần phải khoe mình, dầu chẳng có ích gì; nhưng tôi sẽ nói đến các sự hiện thấy và sự Chúa đã tỏ ra.  Tôi biết một người trong Đấng Christ, cách mười bốn năm trước, đã được đem lên đến từng trời thứ ba (hoặc trong thân thể người, hoặc ngoài thân thể người, tôi chẳng biết, có Đức Chúa Trời biết). Tôi biết người đó (hoặc trong thân thể người, hoặc ngoài thân thể người, tôi chẳng biết, có Đức Chúa Trời biết)  được đem lên đến chốn Ba-ra-đi, ở đó, nghe những lời không thể nói, mà không có phép cho người nào nói ra.5 Về người đó, tôi sẽ khoe mình; nhưng về chính mình tôi, tôi không khoe, chỉ khoe về sự yếu đuối của tôi mà thôi.  6 Dầu tôi muốn khoe mình, thì cũng không phải là một người dại dột, vì tôi sẽ nói thật; nhưng tôi giữ, không nói, hầu cho chẳng ai nghĩ tôi vượt quá sự họ thấy ở nơi tôi và nghe tôi nói. 7 Vậy nên, e rằng tôi lên mình kiêu ngạo bởi sự cao trọng cả thể của những sự tỏ ra ấy chăng, thì đã cho một cái giằm xóc vào thịt tôi, tức là quỉ sứ của Sa-tan, để vả tôi, và làm cho tôi đừng kiêu ngạo. 8 Đã ba lần tôi cầu nguyện Chúa cho nó lìa xa tôi. 9 Nhưng Chúa phán rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vậy, tôi sẽ rất vui lòng khoe mình về sự yếu đuối tôi, hầu cho sức mạnh của Đấng Christ ở trong tôi. 10 Cho nên tôi vì Đấng Christ mà đành chịu trong sự yếu đuối, nhuốc nha, túng ngặt, bắt bớ, khốn khó; vì khi tôi yếu đuối, ấy là lúc tôi mạnh mẽ.

2 Cô-rinh-tô 12:1-10.

 

Nhiều khi gặp tình trạng bất mãn hay khó khăn, ta cầu nguyện, nhưng không thấy Chúa đáp lời thì nên nhớ câu chuyện của Phao-lô, với câu trả lời của Chúa rằng: Ân điển ta đủ cho ngươi rồi, vì sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Phao-lô cầu nguyện ba lần, nhưng Chúa không cất bỏ gánh nặng, cơn đau hay chướng ngại nào đó, trái lại Chúa bảo rằng Ngài đã ban ân điển để ông có thể chịu nổi nỗi khó khăn đó. Chúng ta cũng có thể nhận được câu trả lời của Chúa khi mình xin Chúa một điều mà thấy Chúa im lặng, vì ân điển Chúa cho đã đủ rồi, ta có thể chịu nổi thử thách và qua khỏi.  Câu Sức mạnh của ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối có nghĩa là: Sức mạnh Chúa ban cho mỗi người sẽ trở thành mãnh lực khi nào người ấy cảm thấy thật yếu đuối. Khi nhận thấy mình yếu đuối thì sẽ nhận lấy sức mạnh từ Chúa và đắc thắng hoàn cảnh.

 

Ta có thể theo lời Phao-lô trong khúc Kinh thánh trên đây mà hết lòng nhờ ơn Chúa đắc thắng hoàn cảnh vì Chúa đã ban đủ ân điển cho mỗi chúng ta.

Bài 13: Vấn Đề Đau Khổ

Bài 13: Vấn Đề Đau Khổ

 

 

Một trong những điều huyền bí nhất của đời người là huyền bí về đau khổ. Câu hỏi thường nghe nạn nhân thốt ra là: “Tại sao tôi bị thế này?” Tại sao mắc bệnh tật? Tại sao bị tật nguyền? Tại sao người này hay người khác chết? Tại sao tôi phải gánh nỗi khó chịu thế này? Có những đau khổ trong thân xác, trong tâm trí và trong lòng. Chúng ta không hiểu vì lý do nào mà các việc đó xảy ra.

Nhưng chúng ta có thể hiểu rõ hơn vấn đề đau khổ trong đời sống nếu nắm vững một số các dữ kiện tích tích cực sau đây:

 

  1. Mỗi phước hạnh nhận được cũng có thể là một đau khổ.

 

Thí dụ như tôi mua cho con một chiếc xe đạp.  Tôi nhớ khi còn nhỏ cũng được cho một chiếc xe đạp cũ mà đã sung sướng lắm rồi, nên mua cho con chiếc xe mới là điều tôi nghĩ con rất thích. Tuy nhiên trẻ nhỏ khi mới tập đi xe đạp cũng dễ trầy tay trẹo chân lắm.  Khi con tôi tập xe rồi ngã và khóc, thì tôi có tự trách là mình gây tai nạn cho con hay không? Đúng là như thế, nhưng khi cho con chiếc xe mới tôi cũng đã tạo được niềm vui trong đời của đứa con chứ. Cho con chiếc xe cũng là cho nó cơ hội sứt tay trầy chân, nhưng tôi không bao giờ cố ý cho con bị tai nạn cả.

 

Chúa đã cung ứng cho chúng ta nhiều điều quý báu cho chúng ta được vui hưởng. Như tình yêu chẳng hạn. Tình yêu đem đến những phước hạnh quý nhất cho cuộc đời, nhưng cũng chính tình yêu đưa đến những đau thương nặng nề nhất. Chúa cho người nam và người nữ khả năng thương yêu nhau. Chúng ta cưới gả và xây dựng gia đình, thế rồi con cái ra đời và một thứ tình yêu khác phát sinh. Nhưng rồi có điều xẩy ra cho những người chúng ta thương yêu và tâm hồn chúng ta tan nát.

 

Chúa cho chúng ta khả năng mơ ước, hi vọng và trông mong. Nhưng đôi khi hi vọng của chúng ta tan vỡ và những gì chúng ta đam mê nhất bị đe dọa. Chúng ta khổ vì bất mãn và thất vọng. Mặt khác chúng ta cũng có khả năng nếm biết cái phấn khởi của thành công. Vì vậy để có thể có được niềm vui chúng ta cũng phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ.

 

Một đội bóng tham gia vào một trận đấu. Các cầu thủ hết sức trổ tài, nhưng khi bị thua, khó lòng chịu nổi. Chỉ có một cách tránh cái đau khổ đó là đừng chơi thôi. Nhưng họ cũng không chối từ nếu thắng vinh quang và thỏa mãn. Sự thật là đã chơi bóng thì phải sẵn sàng chấp nhận được thua, mà thường gọi là tinh thần thể thao hay ngày xưa gọi là tinh thần thượng võ.

 

Nghiên cứu về đời sống, chúng ta sẽ thấy những gì xẩy ra đều đi có đôi cả: tốt và xấu, cao và thấp, mạnh và yếu, nóng và lạnh, trắng và đen kể cả khổ và sướng. Cuộc đời đúng là có thể xẩy ra thế này hay thế khác. Dường như nếu không có đau đớn thì cũng chẳng làm gì có sung sướng trong đời.

 

  1. Đau đớn và khổ sở trong cuộc đời là một trong những giá phải trả để được thuộc về nhân loại.

 

Câu nói thường nghe nhất là: Tại sao kẻ vô tội chịu đau khổ?

 

Trong xã hội có hệ thống pháp luật, có thẩm phán và bồi thẩm đoàn.  Nếu người nào bị cáo một tội phạm sẽ bị đưa ra toà xử công khai. Nếu xét rằng có tội người ấy sẽ bị trừng phạt tương xứng với tội phạm. Tòa án cũng cẩn thận để không bao giờ trừng phạt những người vô tội.  Nhưng đời sống thì không hẳn như vậy.

 

Dĩ nhiên lý luận thông thường vẫn cho rằng tội đưa đến đau khổ trong đời này và đời sau, nhưng vẫn có trường hợp người vô tội chịu khổ nhiều quá. Nhiều bậc cha mẹ ăn ở thiện lành thế mà con cái họ lại sống đời hư hỏng làm cho họ thật khổ tâm. Có những thánh nhân mang thân phận đau khổ cả đời, người khác phải gánh vác những nỗi khó khăn và bất mãn.

 

Nhưng nếu chúng ta đòi rằng Chúa phải tạo ra một thế giới theo căn bản cá nhân – nghĩa là cho mỗi người chịu khổ tùy theo điều sai trái mà người ấy phạm – thì không chừng chúng ta cũng phải giới hạn những niềm vui mà nhiều người đem đến cho chúng ta. Bạn xét xem đời sống bạn đã được hưởng bao nhiêu điều tốt lành do cố gắng của người khác.  Bạn có muốn loại bỏ cả những điều ấy khỏi cuộc đời mình chăng?

 

Chúng ta được hưởng vô số phước hạnh mà không do mình gây ra. Cũng vậy, chúng ta chịu nhiều nổi khổ cũng không do mình phạm lỗi.

 

Câu hỏi nhiều khi đặt ra là: Tôi làm gì mà phải chịu nông nỗi này?

Và câu trả lời là không có gì cả.

Chúng ta cũng không làm gì cả mà được hưởng phúc lành. Vì đau khổ và sung sướng đều thuộc về nhân loại cả. Chúng ta chịu khổ vì tội của người khác gây ra.

 

Ta sang một điểm huyền bí khác, đó là tại sao Chúa dường như can thiệp vào cuộc đời một số người mà không can thiệp vào cuộc đời những người khác. Ta cầu nguyện cho một số người bệnh và thấy Chúa chữa lành, trong khi đó nhiều khi cầu nguyện mãi mà bệnh không thuyên giảm.  Tại sao người này được lành mà người kia không lành?

 

Đây là nan đề về cách Chúa đáp lời cầu xin.

 

Gia-cơ 5 :16 ghi rằng : « Lời cầu nguyện của người công chính có quyền năng và rất linh nghiệm. » Nghĩa là Chúa luôn luôn đáp lời cầu xin, nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng hiểu hết cách trả lời của Chúa. Đôi khi câu trả lời là « được » hay là « phải » ; có lúc là « không được » hay « không phải » ; nhưng cũng có khi là « chưa được » hay « cứ chờ ».

 

Ngay cả những hình thức trả lời này cũng là cách loài người nghĩ ra chứ không phải cách của Chúa. Vì chúng ta không thể với tới tư tưởng của Chúa bao giờ.

 

Chúng ta cũng thường cầu nguyện và trông mong theo quan điểm của mình, mà không hiểu quan điểm và ý định cũng như chương trình của Chúa cho mỗi cuộc đời. Nghĩa là phải tôn trọng ý Chúa và kế hoạch của Ngài nữa.

 

Ý Cha được nên nhiều khi không thích hợp với ý chúng ta. Câu hỏi nào đặt ra theo ý chủ quan nhiều khi rất khó trả lời, nhưng khi nhận ra chúng ta chỉ là một sinh vật nhỏ nhoi cầu xin ân huệ từ vua vũ trụ, thì ta đành vâng phục và không dám đòi hòi hơn nữa.  Đặc ân cầu nguyện cũng đã là một ân huệ rồi.

 

  1. Thứ ba là, Chúng ta có thể chắc chắn rằng Chúa cùng làm việc với chúng ta để giúp chúng ta thắng được những đau khổ trong thân xác, trong trí não và tâm hồn.

 

Tác giả Thi Thiên viết rằng:

Đức Giê-hô-va xây cất Giê-ru-sa-lem; Ngài hiệp lại những kẻ bị tản lạc của Y-sơ-ra-ên, Chữa lành người có lòng đau thương, Và bó vít của họ. Ngài đếm số các vì sao, Gọi từng tên hết thảy các vì ấy. Chúa chúng tôi thật lớn, có quyền năng cả thể; Sự thông sáng Ngài vô cùng vô tận. 6 Đức Giê-hô-va nâng đỡ người khiêm nhường, Đánh đổ kẻ ác xuống đất. (Thi Thiên 147:2-6).

 

Trong các câu này chúng ta thấy Chúa là chủ tể vũ trụ vạn vật, nhưng cũng Chúa của cá nhân mỗi người.  Chúa làm việc cùng với chúng ta trong nhiều hình thức.  Đôi khi Chúa làm việc với cá nhân và cất đi đau thương của người ấy. Có khi Chúa chờ đợi cho đến khi lời cầu xin được đáp ứng cho toàn thể gia đình của con cái Chúa.

 

Thí dụ như một bà mẹ cầu nguyện cho đứa con được cứu thoát khỏi chứng tê liệt. Nhưng mọi người đều phấn khởi khi Chúa đưa đến vị thầy sáng chế ra thuốc ngừa bệnh tê liệt này là bác sĩ Jonas E. Salk, nhờ đó mà hằng triệu trẻ nhỏ được chủng ngừa tê liệt mỗi ngày trên thế giới ngày nay. Duy chỉ phải chờ đợi một thời gian mà thôi.

 

Đôi khi Chúa trả lời cầu nguyện không phải bằng cách loại trừ nỗi đau thương, nhưng cho có khả năng chịu đựng nổi cơn đau ấy. Đó cũng là sự thực trong đời sống. Mục đích của Chúa Cứu Thế không phải là giải trừ mọi cơn bão tố của đời sống.  Chúa không vào trần gian để dạy chúng ta cách hưởng thụ những gì tốt lành và tránh thoát những nan đề. Chúa vào trần gian để tạo nên những con người có bản chất tốt. Chúa từng bảo các môn đệ đầu tiên rằng:

 

Ta đã bảo các ngươi những điều đó, hầu cho các ngươi có lòng bình yên trong ta. Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi! Giăng 16:33.

 

Chúa đã thắng thế gian này, và chúng ta nhờ ân huệ của Chúa cũng sẽ đắc thắng.

 

Một người cha đem đứa con gái nhỏ đến cho bác sĩ mắt khâu mí mắt của bé, vì lý do nào đó bị đứt ra. Bác sĩ không muốn dùng thuốc mê vì có thể gây hại cho bé, nên bảo bé: Con ngồi yên, đừng nhúc nhích một phút được không? Đứa bé trả lời: Con ngồi yên được nếu ba con cầm tay con. Thế rồi bác sĩ thực hiện việc khâu mí mắt của bé, và thực sự bé không cử động cũng không khóc. Câu chuyện này cho thấy việc người cha cầm lấy tay bé không giúp gì cho bác sĩ tăng hay giảm số mũi khâu hay làm cho bé bớt đau.  Nhưng nếu không có người cha cầm tay bé, chưa chắc việc khâu mí mắt đã làm nổi. Câu chuyện này minh họa về kinh nghiệm của hằng nghìn người về bàn tay mạnh, khôn ngoan và quyền năng của Chúa đã cầm lấy tay họ. Đau thương dù kinh khủng đến đâu chúng ta vẫn chịu được và ngay giữa cơn đau đớn, chúng ta được an bình và đắc thắng.

Bài 12: Thắng Căng Thẳng Nội Tâm

Bài 12: Thắng Căng Thẳng Nội Tâm

 

 

 

Nhiều người sống trong đời đã gặp những khó khăn đến nỗi phát sinh ra những chứng bệnh căng thẳng trong nội tâm.  Trong toàn bộ Kinh thánh có một đoạn nói về phương cách thắng được tình trạng căng thẳng và nỗi khổ tâm đó, đó là Gióp 22:21-29.  Đây là lời của một trong mấy người bạn thân của ông Gióp đến an ủi ông trong hoàn cảnh khuynh gia bại sản của ông, xin đọc:

 

21 Ấy vậy, ông hãy hòa thuận với Chúa. Hãy ở bình an: nhờ đó phước hạnh sẽ giáng cho ông. 22 Hãy nhận lãnh luật pháp từ nơi miệng của Chúa. Và để các lời Ngài vào lòng mình. 23 Nếu ông trở lại cùng Đấng Toàn năng, tất ông sẽ được lập lại. Nếu ông trừ bỏ sự gian ác khỏi trại mình, 24 Ném bửu vật mình vào bụi đất, và quăng vàng Ô phia giữa các hòn đá của khe, 25 Thì Đấng Toàn năng sẽ là bửu vật của ông, Ngài sẽ là bạc quí cho ông. 26 Vì bấy giờ, ông sẽ được vui sướng nơi Đấng Toàn năng, và được ngước mắt lên cùng Đức Chúa Trời. 27 Ông sẽ cầu khẩn cùng Ngài, Ngài sẽ nghe lời mình, và ông sẽ trả xong lời khẩn nguyện mình.28 Nếu ông nhứt định việc gì, việc ấy chắc sẽ được thành; ánh sáng sẽ chói trên đường lối mình. 29 Khi người ta gây cho mình bị hạ xuống, thì ông sẽ nói rằng: Hãy chổi lên! Còn kẻ khiêm nhường Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi; Gióp 22:21-29.

 

Ông Gióp có nhiều nan đề trong đời sống đến nỗi sinh ra khổ tâm và đau đớn tâm hồn. Tài sản bị mất hết vào tay kẻ cướp, con cái chết vì tai nạn, từ bàn chân đến đỉnh đầu đều bị lở lói đau đớn, trong khi đó bà vợ còn lên giọng trách móc.  Các bạn tìm đến nhưng thay vì an ủi ông, họ nghi ngờ về lòng tin của ông khiến cho ông càng đau khổ. Thế mà Gióp vượt qua được những nan đề và đạt đến đắc thắng.  Bí quyết thành công của Gióp là gì? Hãy nghe lại lời ông bạn của Gíóp nói:

 

“Ấy vậy, ông hãy hòa thuận với Chúa. Hãy ở bình an: nhờ đó phước hạnh sẽ giáng cho ông”

 

Thường thì trong cảnh ngộ ai cũng rõ các vấn đề của mình. Tâm trí chúng ta cứ diễn đi diễn lại những cảnh tượng xẩy ra cho đến nỗi mọi chi tiết đều rõ ràng minh bạch. Trí óc chúng ta còn có thói quen phóng lớn những cảnh tượng này, và nan đề trông như cũng lớn hơn, chúng ta còn thêm thắt vào những cảm nghĩ của mình như chán ghét, tủi thân, sợ sự tệ hại hơn sẽ phát sinh, tuyệt vọng và chán chường v.v. Cuối cùng chúng ta đưa mình vào tình trạng căng thẳng trong nội tâm.

 

Nhưng giả như bạn có thể chắc chắn rằng dù những gì đã xảy ra cho mình hay là hoàn cảnh hiện tại như thế nào chăng nữa, thì những điều sau đây trong tương lai sẽ đưa đến cho bạn như thường, những điều đó là:

 

Sự tốt lành,

Bạn sẽ có đủ tài chính cung ứng cho mọi nhu cầu,

Bạn sẽ có đời sống sung sướng dễ chịu,

Bạn sẽ hoàn tất những việc đã quyết định làm,

Lời cầu nguyện của bạn sẽ được Chúa nghe và trả lời,

Bạn sẽ có ánh sáng dọi vào những lối đi trong đời,

và Khi những giây phút tuyệt vọng chán nản tới, bạn có thể thắng hơn được.

 

Nếu bạn thật sự tin rằng những việc vừa kể sẽ xẩy ra cho mình thì bạn còn lo lắng và căng thẳng nữa hay không? Dĩ nhiên là không.

 

Trong khi đó thì lời Chúa trong Kinh thánh hứa ban những điều ấy.

Ngay trong khúc Kinh thánh Gióp 22:21-29 ta thấy ghi rõ những điều này:

 

Câu 21: Phước hạnh sẽ giáng trên ông

Câu 23: Ông sẽ được lập lại

Câu 25: Đấng Toàn Năng sẽ là bửu vật của ông

Câu 26: Ông sẽ được vui sướng nơi Đấng Toàn Năng

Câu 27: Ông sẽ cầu khẩn cùng Ngài, Ngài sẽ nghe lời ông

Câu 28: Nếu ông nhứt định việc gì, việc ấy chắc được thành

Câu 28: Ánh sáng sẽ chói trên đường lối ông.

 

Một trong những quy luật sâu xa nhất của đời sống là chúng ta nhận được điều mà mình trông mong. Chúa Giê-xu từng nói: Mọi điều các ngươi xin trong lúc cầu nguyện, hãy tin đã được, tất điều đó sẽ ban cho các ngươi. Mác 11:24.

 

Nhưng câu hỏi quan trọng là: Làm sao tôi tin được?

Niềm tin phải đặt căn cứ trên một nền móng vững bền. Đó là niềm tin vào Chúa. Đó cũng chính là câu Kinh thánh trong Gióp: Hãy làm hòa với Chúa, hay là hãy trở lại xưng tội và tin nhận Chúa.

 

Nguyên văn câu này có thể dịch là: Hãy làm quen với Chúa. Làm quen với Chúa nghĩa là trở lại tương giao với Chúa trao đổi cùng Ngài. Càng làm quen với Chúa bao nhiêu thì căng thẳng trong nội tâm càng thư giãn bấy nhiêu và ta sẽ hưởng được an bình quý giá.

 

Kết luận cho phần lý luận này, là câu: Kẻ khiêm nhường Đức Chúa Trời sẽ cứu rỗi.

 

Dale Carnegie tác giả quyển sách nổi tiếng: Quẳng Gánh Lo Đi Mà Vui Sống đã trả lời câu hỏi về bí quyết thành công trong cuộc đời của ông như sau:

 

Mỗi ngày tôi cầu nguyện. Tôi hạ mình trước Chúa, nhưng mối lo âu, những căng thẳng ra khỏi tâm hồn tôi và an bình với năng quyền vào chiếm chỗ.

 

Đó là bí quyết của một người thành công trong đời. Nhưng nan đề của nhiều người là tự coi mình quá quan trọng đến nỗi không cần tới Chúa nữa.

 

Nhưng làm thế nào để Làm quen với Chúa?

 

Có nhiều cách.

Thử tưởng tượng bạn lên một vùng núi và ngồi ngắm nhìn một ngọn núi rất lớn ở xa xa. Đỉnh núi đó bị che mờ vì một trận bão thổi qua.  Gió đánh vào đủ mọi hướng, nước mưa tuôn xuống làm thành nhiều dòng suối và những lằn sét quất vào mạnh kinh khủng như xé núi ra. Ngọn núi tưởng chừng khó đứng nổi. Nhưng trong ít giờ sau đó, mây tan đi và ngọn núi lại sừng sững cao ngất dưới ánh sáng chói chan của mặt trời.

Cuộc đời nhiều khi trải qua những trận bão táp dữ dội không thua gì cơn bão phủ trên ngọn núi cao ấy.  Không khác gì giông bão, động đất, núi lửa gây cho lạnh lẽo mùa đông, tuyết giá phủ khắp. Những cơn chiến tranh trong đời đến rồi qua đi; nhưng cảnh đau buồn tuyệt vọng xẩy ra với những triều vua lên xuống, nên văn minh xuấ hiện rồi biến mất đi, nhưng ngọn núi vẫn đứng  ở đó.  Nhìn ngọn núi ta cảm thấy mạnh hơn và an toàn hơn. Như tư tưởng trong Thi Thiên 95 như sau:

 

1 Hãy đến hát xướng cho Đức Giê-hô-va, Cất tiếng mừng rỡ cho vầng đá cứu rỗi chúng tôi. 2 Chúng tôi hãy lấy lời cảm tạ mà đến trước mặt Chúa, Vui mừng mà hát thi ca cho Ngài.  3 Vì Giê-hô-va là Đức Chúa Trời rất lớn, Là Vua cao cả trên hết các thần.Các vực sâu của đất đều ở nơi tay Ngài; Những đỉnh núi cũng thuộc về Ngài.  5 Biển thuộc về Ngài, vì chính Ngài đã làm nó; Còn đất khô, tay Ngài cũng đã nắn nên nó.  6 Hãy đến, cúi xuống mà thờ lạy; Khá quì gối xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng Tạo hóa chúng tôi!

 

Thi thiên này kêu gọi mọi người ca ngợi mừng rỡ trước mặt Chúa. Làm sao người ta có thể ca ngợi mừng rỡ? Tác giả bảo rằng, vì Chúa là chân thần vĩ đại chủ tể từ vực sâu đến đỉnh núi, biển cũng như đất khô. Chúa sáng tạo nên tất cả. Vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi: Chúng tôi là dân của đồng cỏ Ngài, Và là chiên tay Ngài dìu dắt. Chính vì vậy mà dân Chúa ca hát mừng rỡ.

 

Một trong những lý do mà con người bị căng thẳng và khổ tâm là nghĩ rằng không có đủ những nhu cầu cần thiết cho đời sống. Chúng ta thường bị đẩy vào thái độ thua bại và sợ hãi. Chúng ta co rút lại khiếp sợ kinh hoàng. Nhưng nếu chúng ta biết được rằng có Chúa là chân thần, và Ngài là Chúa mà chúng ta tin tưởng thì cảm thấy an tâm và bình thản như trẻ thơ trước hiện diện của cha mẹ đầy thương yêu vậy.

 

Nhìn vào ngọn núi cao ta cũng có thể nhớ đến một câu Kinh thánh khác, đó là Ma-thi-ơ 17:20:

 

Ngài đáp rằng: Ấy là tại các ngươi ít đức tin: vì ta nói thật cùng các ngươi, nếu các ngươi có đức tin bằng một hột cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó liền dời qua, và không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được.

 

Đây là lời Chúa Giê-xu trách các môn đệ của Chúa ngày xưa cũng như chúng ta ngày nay.  Vì ít đức tin nên mới thấy nhiều trở ngại cao như núi ngăn chặn sự sống của mình: nợ nần không thể trả, nan đề không lối giải quyết, trở lực không sao vượt qua.

 

Nếu các người có đức tin  đức tin nào? Tự tin hay là tin vào người khác chăng?

Đức tin dời được núi phải khởi đầu từ một Đấng vĩ đại hơn núi. Phần Kinh thánh trong sách Gióp dạy rằng: Khi ta làm quen với Đấng Toàn Năng, ta sẽ có an bình.  Hãy ngưng tập trung vào tính yếu đuối của mình, và bắt đầu chú trọng vào sức mạnh của Chúa. Chúa lúc nào cũng ở đó đầy quyền năng và sức mạnh.

 

Sứ đồ Phao-lô từng nói: Không phải tôi muốn nói đến sự cần dùng của tôi; vì tôi đã tập hễ gặp cảnh ngộ nào, cũng thỏa lòng ở vậy.Phi-líp 4:11

 

Từ thỏa lòng trong câu này nói về thái độ bình tĩnh, không xao động nhưng thích ứng với hoàn cảnh. Sứ đồ Phao-lô không thỏa lòng vì hoàn cảnh, nhưng đó là sự yên tĩnh trong tâm hồn, một loại yên tĩnh không bị ngoại cảnh làm cho thay đổi.

 

Phao-lô vốn là một thanh niên tài giỏi uyên bác về đạo Do thái, hăng say trong việc trừ diệt thứ đạo mới của môn đệ Chúa Giê-xu. Nhưng trên một chuyến công tác tự nguyện này, Chúa đã làm cho ông ngã gục và cho ông hay việc ông đang làm là chống lại chính Chúa. Cuộc gặp gỡ Chúa quá đặc biệt này đã thay đổi con người Phao-lô toàn diện.  Khi ấy ông hỏi: Chúa là ai? Sau khi biết Chúa, Phao-lô đã trở thành người mới và thỏa lòng với mọi cảnh ngộ. Ông nói: Tôi làm được mọi việc nhờ Chúa ban thêm sức cho tôi.  Phi-líp 4:13. Phao-lô không còn bị chứng căng thẳng dày vò trong nội tâm nữa.

 

Đa-vít cũng thế. Một thời Đa-vít nghĩ rằng mình là lực sĩ, là anh hùng của đất nước, không cần đến Chúa nữa.  Nhưng qua những khó khăn trong cuộc đời, Đa-vít biết rằng: Chúa là Đấng chăn dắt ông ta và Đa-vít tin rằng: Phước hạnh và thương xót của Chúa sẽ theo ông mãi mãi, ông quyết tâm trở về nhà Chúa và ở tại đó suốt đời.

 

Ta thấy rõ, việc tin nhận Chúa tức khắc làm cho ta không còn sống căng thẳng và khổ tâm nữa, lúc ấy tâm hồn ta được bình lặng và hưởng hạnh phúc Chúa ban.

Bài 11: Cầu Nguyện Cho Ngày Mai

Bài 11: Cầu Nguyện Cho Ngày Mai

 

 

Chúng tôi nhận được lá thư có lời thỉnh cầu như sau:

“Xin cho tôi biết phải làm sao để có được tin tưởng vào ngày mai và bình tĩnh đối diện với tương lai. Tôi biết rằng quá khứ tôi không thể làm gì được nữa rồi; tôi có thể lo cho hiện tại; nhưng khi tôi nghĩ đến những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi cảm thấy bất lực và lo sợ.”

 

Bước đầu tiên để có được tin tưởng vào tương lai là phải học và ý thức rằng đời sống là tốt lành. Kinh thánh dạy:

Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Rô-ma 8:28.

 

Nguyên tắc trong câu Kinh thánh này áp dụng cho tương lai cũng như cho hiện tại hay quá khứ. Nhưng nói như thế không có nghĩa là mọi việc xẩy ra đều tốt lành cả. Cuộc đời là những chuỗi ngày vui vẻ và buồn chán, đắc thắng và thua bại, thành công và thất bại. Chúng ta cũng biết rằng ngày mai đây có thể đem đến vừa tốt lành lại vừa xấu xa cho đời mình. Nhưng ta nên nghĩ về tương lai trong tổng thể chứ không phải những kinh nghiệm riêng lẻ.

 

Thí dụ như chiếc tàu đi biển chẳng hạn. Mục đích của chiếc tàu thủy là vượt qua những biển cả, nhưng không phải tất cả các thành phần cấu tạo tàu đều nổi trên mặt nước. Động cơ tàu chẳng hạn, nếu ngâm xuống nước sẽ tức khắc chìm sâu dưới đáy biển, nhiều cơ phận khác cũng vậy. Nhưng khi tất cả mọi cơ phận được kết nối vào nhau theo đúng thiết kế, thì chiếc tàu chạy được.

 

Cuộc đời cũng như thế. Có việc xấu xảy ra cho chúng ta, nhưng cũng có những việc tốt lành mà chúng ta được hưởng. Khi chúng ta xét nghiệm những sự việc trong đời chúng ta nên kết hợp tất cả với nhau bằng tình thương của Chúa, chúng ta sẽ thấy rằng tổng quát thì cuộc đời vẫn tiến đến chỗ tốt lành cho chúng ta. Đây chính là loại đức tin mà chúng ta cần.  Chúng ta không cầu xin Chúa đảm bảo là tất cả mọi nỗi đau buồn, bất mãn và nan đề sẽ không bao giờ xẩy ra cho ngày mai của chúng ta. Chúng ta thật sự không cần như thế.

 

Một câu chuyện cổ Hi-lạp kể rằng: Một phụ nữ đi đến dòng sông tên là Styx để được đưa qua sông và bước vào một đời sống mới. Người lái đò tên là Charon nhắc bà ấy rằng, bà ta có thể uống nước sông Lethe và như thế là quên hẳn cuộc đời mà bà ta đang rời bỏ.

 

Bà ấy hăng hái nói: “Tôi sẽ quên hết mọi đau khổ mà tôi đã phải chịu.”

Nhưng người lái đò nói thêm: “Bà cũng sẽ quên hết những lúc bà hưởng niềm vui nữa.”

Người phụ nữ bảo: “Tôi sẽ quên đi hết mọi thất bại của tôi.”

Người lái đò nói: “Và bà sẽ quên đi cả những thắng lợi nữa.”

Bà ấy bảo: “Tôi sẽ quên đi rằng tôi từng bị người tà ghét.”

Người kia nói: “Và quên cả khi bà được người ta thương yêu nữa chứ!”

Câu chuyện kết thúc ở đoạn người phụ nữ ấy quyết định nên giữ lại những điều xấu trong ký ức để có thể giữ nguyên cả những điều tốt mà bà ấy từng được hưởng.

 

Đó là cái nhìn về tương lai. Chúng ta có thể uống một loại thần dược đặc biệt nào đó để có thể xóa bỏ hết đau khổ, thất bại, và ghen ghét của ngày mai, chúng ta hăng hái muốn được như thế. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng cuộc đời luôn luôn có hai mặt và phá hủy mặt này thì cũng cần phải phá hủy mặt kia nữa.  Nghĩa là xóa bỏ cả niềm vui, thắng lợi và yêu thương nữa. Chúng ta quyết định không thể uống thứ thần dược nguy hiểm đó.

 

Một số sự việc xấu xa xẩy ra trong đời. Một số sự việc khác thật là tốt lành. Nhưng cuộc đời vẫn là tốt lành, đúng như thánh Phao-lô đã bảo:

 

Vả, chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho kẻ được gọi theo ý muốn Ngài đã định. Rô-ma 8:28.

 

Khi chúng ta có lòng tin như thế, chúng ta sẽ đối diện ngày mai với hi vọng chứ không sợ hãi nữa.

 

Câu hỏi đặt ra là: Tại sao chúng ta lo lắng về ngày mai?

Không phải vì chúng ta sợ có việc xấu xẩy ra. Chúng ta biết rõ những nỗi buồn và thất bại chờ sẵn phía trước chúng ta.

Nhưng nên nhớ lời Thi Thiên 23 rằng:  “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi;”

 

Tác giả Thi thiên này biết trước có trũng bóng chết chờ đón mình phía trước, nhưng ông cả quyết là “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết” nghĩa là bước thẳng vào chỗ nguy hiểm, và vì thế ông “không sợ tai họa nào..”

 

Ta có thể đương đầu với nỗi đau sâu nhất, nếu ta biết ta sẽ chịu nổi, thực sự chịu nổi. Làm sao dám cả quyết như vậy?  Vì “Chúa ở cùng tôi”  Khi cuộc đời tập trung vào Chúa thì người đó biết rõ thất bại chưa phải là bước đường cùng.  Vì mọi sự sẽ hợp lại đưa đến lợi ích cho người hết lòng tin cậy và sống với Chúa.

 

Với đức tin như thế, những nỗi lo sợ về ngày mai sẽ nhường chỗ cho hi vọng, và khi ta nhìn vào tương lai với hi vọng, ta sẽ thấy cuộc đời là tốt lành. Hi vọng đem lại sức lực cho ta.  Châm ngôn 13:12 dạy rằng: Sự trông cậy trì hoãn khiến lòng đau đớn; Nhưng khi  ước ao được thành, thì giống như một cây sự sống.

 

Có người nghiên cứu về một hãng xưởng lớn có nhiều công nhân. Mọi người đều làm việc gần như nhau, nhưng đến cuối ngày có người tay chân mệt mỏi chán nản ra về, trong khi đó một số vẫn mạnh khoẻ và vui vẻ. Người quan sát nghiên cứu phỏng vấn họ, thì được biết nhóm thứ hai này có cái gì trông mong vào buổi tối hôm ấy.  Như có hội họp bè bạn ăn chơi hay tham dự cuộc vui cuối tuần.  Trong khi đó những người kia không có chương trình gì cả chỉ về nhà nghỉ.

 

Hi vọng là điều có thể phát triển. Muốn phát triển hi vọng thì phải có đối tượng để mà hi vọng. Hi vọng không bao giờ hiện thực nếu chưa có đối tượng. Xin đề nghị hai câu hỏi cho những ai không có hi vọng gì:

 

1. Điều mà bạn thực sự ước mong trong đời là gì?

2. Làm thế nào bạn bắt đầu để thực hiện điều ước mong đó?

 

Hai câu hỏi này sẽ đưa đến việc ấn định một mục tiêu để bắt đầu hành động và sáng tạo. Khi nào bạn đặt được mục tiêu thì tự động những mối lo sợ sẽ tiêu tan cả. Và lúc ấy bạn cũng không làm gì còn thời gian để mà lo lắng nữa.

 

Nhưng thường thì chúng ta cảm thấy rằng những nguồn cung cấp đều vượt xa sức của chúng ta.  Đó cũng là lý do mà chúng ta quay về với Chúa và khởi sự cầu nguyện. Khi chúng ta cầu nguyện với hi vọng như thế thì những từ như tuyệt vọng, không thể xẩy ra, thua bại đều sẽ bị bôi xóa khỏi tâm trí chúng ta.

 

Chúng ta nhớ lời Chúa Giê-xu dạy:

 

Các ngươi nhơn danh ta mà cầu xin điều chi mặc dầu, ta sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con. Giăng 14:13.

 

Lời hứa này quá vĩ đại và rõ ràng đến nỗi nhiều người không dám tin là thật nữa. Nhưng chúng ta nên nhớ rằng Chúa không bao giờ thất hứa cả.

 

Câu Kinh thánh này có bốn điều dạy ta phải nhớ, đó là:

 

1.  Thông thường thì Chúa đã để những Điều chi mặc dầu đó ngay tầm tay với của ta. Một học sinh cầu nguyện xin Chúa cho có điểm cao trong cuộc thi ngay ngày hôm sau đó. Cậu ta cầu ngưyện khẩn thiết, nhưng vẫn thi rớt. Học sinh này mất đức tin và cho rằng Chúa không giữ lời hưá. Năm sau cậu ta quyết định không nhờ Chúa nữa, nhưng học bài rất cẩn thận thì thi đậu. Nhiều năm sau học sinh này mới biết rằng Chúa đã trả lời cầu xin trước khi cậu ta xin.  Vì Chúa đã ban cho cậu khả năng trí tuệ để học và thi đậu, nhưng năm đầu tiên cậu ta không sử dụng những gì Chúa cho, tức là khả năng học và thi đậu. Thành ra Chúa đã cho chúng ta những phương cách sỏ hữu những điều chi mặc dầu đó.

 

2.  Chúa khôn ngoan hơn ta và Chúa có quyền uy để phân biệt những gì tha thật sự cần và những gì ta muốn trong thời điểm nào đó. Một thiếu niên được đi xe ngựa suốt mùa hè với một chủ xe. Ông ta có con ngựa rất khỏe và thiếu niên kia lái xe rất giỏi. Vào tháng Chín là tháng trở lại trường học, cậu này không thích đi học nữa, nói với cha xin chạy xe ngựa với người chủ kia. Giả sử như người cha chiều con, bảo rằng: “Được, con đã quyết như thế và muốn làm nghề đó thì ta cho con làm.” Nhưng người cha rất khôn ngoan, biết phân biệt những gì cậu con thèm khát ngay lúc đó và sự ước ao thật của cậu ta, nên không cho con đi làm nghề xe ngựa.  Chúng ta rất may vì Chúa khôn ngoan, Ngài trả lời những việc lớn cho chúng ta mà đôi khi Ngải phải khước từ những chuyện nhỏ trên lộ trình dẫn đến thành công.

 

3. Chúa quan tâm đến tất cả mọi người, nên nếu điều chi mặc dầu của tôi có thể gây khó khăn cho lời cầu nguyện của một người nào khác, thì với khôn ngoan và thương yêu vô hạn, Chúa sẽ trả lời lời cầu xin nào đáng phải được trả lời. Ông Năm gọi cho hãng hàng không để xin một chỗ trên chuyến bay, nhưng hàng không trả lời là không còn chỗ. Ngày hôm sau hàng không gọi lại nói rằng có một chỗ.  Ông Năm cầu nguyện xin Chúa cho có chỗ ngồi.  Nhưng khi ông Năm ra phi trường thì máy bay đã cất cánh, không chờ ông ta. Trong trường hợp đó, đúng ta đáng lẽ Chúa bắt người nào đó phải bỏ chỗ cho ông Năm có chỗ ngồi, nhưng như vậy là bất công đối với người đã có chỗ. Vì thế Chúa đã trả lời cầu nguyện của người hành khách kia để ông ta không bị bỏ lại.

 

4.  Mặc dù đã có lời Chúa hứa: Hễ nhân danh Chúa cầu xin điều gì cũng sẽ được, nhưng chúng ta đừng quên thêm câu:  “Nhưng không theo ý con mà theo ý Cha.’

Như thế chúng ta có thể nhân danh Chúa cầu xin bất cứ việc gì, Chúa sẽ làm cho, để Cha được sáng danh nơi Con,  nhưng không theo ý con mà theo ý Cha.

 

Với cái đảm bảo đó, mỗi chúng ta có thể nhìn vào tương lai với tin tưởng và không lo sợ.

Bài 10: Đức Tin Dời Núi

Bài 10: Đức Tin Dời Núi

 

Đức Chúa Jêsus cất tiếng phán rằng: Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời.  23 Quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai sẽ biểu hòn núi nầy rằng: Phải cất mình lên, và quăng xuống biển, nếu ngươi chẳng nghi ngại trong lòng, nhưng tin chắc lời mình nói sẽ ứng nghiệm, thì điều đó sẽ thành cho. Mác 11:22,23.

 

Mỗi khi gặp một nan đề hay hoàn cảnh khó ai cũng muốn thấy mình làm chủ được tình hình, chứ không phải là nạn nhân. Không ai muốn cảm thấy mình yếu đuối hay bị thua bao giờ. Nhưng trên thực tế chúng ta phải nhận rằng mỗi người đều có những giới hạn trong khả năng, trong trở lực và cần đến một sức mạnh bên ngoài mình cứu giúp.  Nhiều hoàn cảnh đưa đến trong đời ta khiến ta thấy mình vô quyền và dễ bị đè bẹp. Chúa Giê-xu biết rõ cảm nghĩ của loài người chúng ta và lời Chúa nói đã ghi lại trong phúc âm Mác mà chúng ta vừa đọc.

 

Câu Kinh Thánh này rất ngắn gọn nhưng có thể giúp ta thấy một công thức về cầu nguyện:

Chúa nói: Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời. Nghĩa là đừng tự tin, đừng tin ở khả năng hay sức mạnh của mình.

Chúa nói tiếp:  Quả thật ta nói cùng các ngươi.

 

Trước khi phát biểu một điều quan trọng, Chúa thường nói như thế.  Nghĩa là việc đó chắc chắn sẽ xẩy ra và là điều có thực, mặc dù có thể khó hiểu.

 

Chúa còn xác nhận là bất cứ ai cũng có thể làm được, nghĩa là ra lệnh cho hòn núi. Ai đó có thể là bạn hay là tôi hoặc người nào khác.

 

Đối tượng hiển nhiên là một hòn núi lớn, rõ ràng và cụ thể như hoàn cảnh khó khăn hay nguy hiểm mà ta đang đối diện.

 

Hãy nói với trở lực trước mắt rằng: Hãy dời chỗ đi, đừng cản bước ta nữa, đừng làm khổ ta nữa.

Hãy cất mình lên và tự quăng xuống biển. Nghĩa là hãy chấm dứt gây khó khăn và đau khổ cho ta và biến mất đi.

Cuối cùng là: Đừng nghi ngại nhưng tin chắc việc sẽ xảy ra.  Việc đó sẽ xẩy ra.

Có ba thái độ đối với lời Chúa dạy mà chúng ta nghiên cứu hôm nay:

Thứ nhất, bạn có thể nói: Chuyện đó khó lòng lắm, tôi không tin đâu?

 

Nhưng khi bạn phát biểu hay nghĩ như thế là bạn đang mâu thuẫn với cuốn sách đáng tin nhất trong đời.  Bạn cũng dám chống lại vị giáo sư vĩ đại nhất từng có mặt trên mặt đất này. Thường thì khi một ngưòi có tư tưởng chống lại một ai, thì người đó cho rằng mình hiểu biết hơn người đó. Bạn có hơn vị thầy của các vị thầy ấy không? Chắc chắn là không có ai biết hơn Chúa được phải không bạn?

 

Gần 60 năm trước đây, khoa học gia David Sarnoff, người từng làm việc với các nhà khoa học lỗi lạc của thế giới,  đã phát biểu:

 

Vào những giai đoạn đầu, khoa học hiện đại dường như tương phản với đạo Chúa, nhưng đó chỉ là lúc khoa học chưa trưởng thành. Trong hiện tại, câu chuyện quen thuộc mà ta hay nghe kể lại là các nhà khoa học càng ngày càng ý thức được cái bí mật của vũ trụ và đến với đạo Chúa qua hiểu biết nhiều giới hạn của khoa học. Đó là khi những con người chơi những hình khối bằng gỗ xây dựng vũ trụ, với những nguyên tử, những electrons và những genes bỗng thấy kinh hoàng. Mỗi một thắng lợi trong khoa học cho thấy rõ có một mẫu mực trong tự nhiên, một sự đồng bộ đáng lưu ý trong mọi sự vật từ hình thái siêu vi cho đến vô định.

 

Như thế khi tôi tuyên bố rằng: Tôi không tin vào sức mạnh của Đức Tin. Là tôi đã chống lại lời chứng của khoa học hiện đại.

 

Khoa học nói rằng: “Máy truyền hình hoạt động” và ai tin thì mua máy về xem và thấy TV chạy thật. Chúa và khoa học đều xác nhận:  “Đức tin nơi Chúa hoạt động” ai tin và thực nghiệm sẽ thấy.

 

Chúa Giê-xu nói rằng nếu bạn có đức tin nơi Chúa bạn có thể dời được ngọn núi cản đường bạn. Có người không tin như thế.  Đó là thái độ thứ nhất.

 

Thái độ thứ hai đối với sức mạnh của đức tin có thể phát biểu là: “Tôi không hiểu, điều này vượt quá tâm trí của tôi.” Nghĩa là không tin mà cũng không phủ nhận. Tức là không làm gì cả.

 

Thái độ này là chịu thua hoàn cảnh và bảo rằng: “Tôi không thể làm gì được cả.” Nghĩa là nhận rằng mình yếu đuối, bất lực và không đưa mình vào thứ sức mạnh mà mình có thể sử dụng.  Thường thì thái độ này đưa ta đến chỗ phê phán và nghi ngờ.

 

Một vị bác sĩ chuyên môn tâm lý đến nhà thờ mở cuộc khảo sát về những người đi nhà thờ và thấy nhà thờ nào cũng có những người như sau:

 

Có người đi nhà thờ với thái độ không tin. Ông ta nhìn người ngồi trong nhà thờ và nghĩ rằng họ chỉ là những kẻ giả hình. Ông ấy cũng cho rằng hội thánh hát dở quá và không muốn hát. Khi mục sư giảng, ông ta không chịu tiếp thu mà nghĩ rằng chính mục sư cũng giảng thế thôi chứ có áp dụng gì đâu.  Khi thấy những người dường như được phấn khích và phục vụ trong giờ thờ phượng, ông ta cho là những người ấy giàu tình cảm quá mà thôi.

 

Bác sĩ này cho biết rằng, mặt khác có người vào nhà thờ với lòng tin. Ông ta rất cảm động khi nghĩ rằng nhiều tín hữu đã dâng tiền để xây dựng một ngôi nhà thờ nguy nga và đẹp đến thế. Ông cò nghĩ đến bao nhiêu người đã hiến dâng cuộc đời qua nhiều thế kỷ để đem tin mừng của Chúa Cứu Thế đến những dân tộc xa xôi. Ông cũng suy nghĩ: Làm sao có người dám chết vì đức tin? Làm sao cuốn Kinh Thánh tồn tại cho đến ngày nay? Ông ta được xúc động và tin về đức tin của những người từng tử vì đạo. Ông ấy hòa đồng với mọi người hát ca ngợi Chúa, và khi nghe giảng lời Chúa, ông tiếp thu vào tâm hồn mình.

 

Chúa Giê-xu từng nói: Ta nói cùng các ngươi, ai có, thì sẽ cho thêm; song ai không có, thì sẽ cất luôn của họ đã có nữa. Lu-ca 19:26. Nguyên tắc trong câu nói này áp dụng trong nhiều lĩnh vực của đời sống và nhất là đối với đức tin. Người không sử dụng đức tin trong nhà thờ sẽ ra về với đức tin ít hơn khi ông ta bước vào nhà thờ. Nhưng người sử dụng đức tin từ khi bước vào cho đến khi ra về sẽ thấy có sức mới và quyền năng của Chúa nên rất thỏa mãn.

 

Chúng ta đã nói đến thái độ thứ nhất là không tin vào đức tin, thái độ thứ hai là tin nhưng cho là khó xẩy ra. Nhưng thái độ thứ ba là của những người hết lòng tin. Những người này sử dụng đức tin của mình dù đơn sơ hay thiếu sót như thế nào, nhưng kinh nghiệm đức tin tăng trưởng.

 

Có câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào phát triển đức tin?

 

Có hai cách:

1. Thực hành sự hiện diện của Chúa.

Có nhiều cách. Ta có thể dành riêng một thời gian trong ngày ta sống để yên lặng chờ đợi hiện diện của Chúa. Đây là giây phút ta định ra mỗi ngày để đọc Kinh Thánh và sau đó cầu nguyện. Thời gian tuỳ theo mỗi người, nhưng chắc chắn mỗi chúng ta đều có thể làm điều này nếu thật sự muốn đức tin gia tăng và đời sống gần Chúa hơn và xa lánh tội ác hơn. Bạn có thể đọc Kinh Thánh và cầu nguyện trong vòng 30 phút mỗi ngày. Việc dành riêng giờ yên tĩnh với Chúa vô cùng quan trọng và thấy kết quả ngay mỗi ngày ta sống. Hiện diện của Chúa trong tâm hồn ta sẽ cho ta được phước hạnh và gia tăng đức tin cho ta.

 

Nhiều người khác mỗi khi đến nơi thờ phượng Chúa thì cảm thấy hiện diện của Chúa. Những tiếng hát ca ngợi Chúa với lời cầu nguyện sẽ tạo ra không khí thuận lợi cho tâm trí ta tập trung và suy nghĩ về Chúa chuyên biệt hơn.

Ta có thể đang làm việc hay đang di chuyển mà cũng có thể kinh nghiệm hiện diện của Chúa bằng cách đặt ra cho mình những câu hỏi và cố gắng trả lời, như:

 

a. Điều gì khiến tôi phải cảm tạ Chúa hôm nay?

b. Điều gì tôi đã làm trong 24 giờ vừa qua mà tôi thấy hổ thẹn?

c. Điều Chúa muốn thực hiện trong đời tôi hôm nay là gì?

d. Tôi nên cầu thay cho ai đây?

 

Trả lời những câu hỏi này giúp tôi cảm tạ Chúa, xưng tội với Chúa, làm theo ý Chúa và cầu thay.  Bạn có thể đặt thêm các câu hỏi để tập trung tư tưởng mà cầu nguyện cho đức tin gia tăng.

 

2. Cách thứ hai: Muốn gia tăng đức tin thì ít nhất phải có đức tin đã.

 

Có người than là không có đức tin, người khác nói ít đức tin.  Chúa Giê-xu từng trách các môn đệ  không có đức tin và ít đức tin. Đức tin không phải là một ân tứ nhưng là một khả năng. Khả năng này ta có khi công nhận Chúa có thật và quyết định tin Chúa. Người không có đức tin hay ít đức tin tức là không tin nhận Chúa hay là không hết lòng tin nhận Chúa.

 

Hê-bơ-rơ 11 câu 6 dạy rằng: 6 Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài. Câu này cho biết rằng người muốn cầu nguyện cùng Chúa thì phải công nhận rằng Đức Chúa Trời có thật.  Đức tin ấy là một nhận định và quyết định của cá nhân mỗi người.

 

Chúa Giê-xu từng dạy rằng:

Đức Chúa Giê-x đáp rằng: Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết ý mà yêu mến Chúa, là Đức Chúa Trời ngươi. Ấy là điều răn thứ nhứt và lớn hơn hết. Ma-thi-ơ 22:37.

 

Trong lời dạy này Chúa bảo phải quyết tâm tin Chúa, nhưng trước đó phải kính yêu Chúa đã, nghĩa là tôn thờ và suy phục Chúa như thế mới có thể đặt niềm tin nơi Chúa. Nói khác đi, trước khi ta lý luận về đức tin thì phải có kinh nghiệm về đức tin, nghĩa là phải hạ mình tin nhận Chúa đã. Chúa Giê-xu không nói tại sao đức tin có thể làm chuyển động những trở lực vĩ đại như tảng núi, nhưng Ngài chỉ bảo: Hãy có đức tin đến Đức Chúa Trời.  Khi đã có đức tin như thế, sau đó nhiệm vụ của ta là bận rộn trong việc dọn dẹp những tảng núi trở ngại vướng bước tiến của mình. Đừng chờ xem mình có làm nổi không, cứ khởi động đi. Chúa dạy tiếp: Nếu ai không nghi ngờ, mà tin chắc lời mình nói sẽ ứng nghiệm thì sẽ đắc thắng trở lực.

 

Nhiều người đọc những lời này có thể cho rằng khó chấp nhận, nhưng đây là lời của Chúa Giê-xu là Đấng Chủ Tể vũ trụ vạn vật mà chúng ta tôn thờ. Xin hãy đặt lòng tin nơi Chúa và khởi động đức tin cầu xin Chúa dời đi những trở ngại trong đời sống cá nhân, gia đình và cả trong Hội Thánh nữa. Xin đến với Chúa ngay trong giây phút này và bắt đầu dọn dẹp những tảng núi đang ngăn cản bạn trên đường tin Chúa hôm nay.  Xin Chúa cho bạn được thắng và ca mừng cảm tạ Chúa.

Bài 9: Cầu Nguyện Theo Ý Chúa

Bài 9: Cầu Nguyện Theo Ý Chúa

 

 

Khi cầu nguyện chúng ta đến với Chúa và trình dâng những kế hoạch, những ước muốn và xin Chúa cứu giúp, đó là điều rất đúng.  Tuy nhiên, trước khi Chúa thật sự mở cửa ra cho ta, nghĩa là đáp ứng, Ngài phải nghe ta nói: “nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”

 

Như lời chính Chúa Giê-xu cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê khi xưa ghi trong Lu-ca 22:41-42: Ngài bèn đi khỏi các môn đồ, cách chừng liệng một cục đá, quì xuống mà cầu nguyện rằng: Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy khỏi con! Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chớ không theo ý con!

 

Lối cầu nguyện này thật ra rất là khó, vì ta phải biết tuân phục khi ý Chúa thắng hơn ý của ta. Vì khi Chúa Giê-xu cầu nguyện: “Xin ý Cha được nên, ở đất cũng như trên trời..” thì Cha đáp lời là việc Chúa Giê-xu phải chịu cái chết nhục nhã đẫm máu trên thập giá.

 

Việc cầu nguyện theo ý Cha nhiều khi đưa đến nguy nan cho người cầu nguyện là như thế.  Ít khi ta cầu xin Chúa điều gì mà ý thức rằng, nếu Chúa nhậm lời và cho việc xẩy ra theo ý Chúa lại có thể gây khó khăn nguy hiểm cho ta.  Đây là điểm tế nhị của việc cầu nguyện.  Vì không phải lúc nào cầu nguyện cũng đưa đến an toàn cả đâu.  Vì cầu nguyện theo ý Chúa thì còn có giá phải trả.  Người tin Chúa nếu không biết điểm này, sẽ bất mãn khi việc khó khăn xẩy ra.

Nhiều bài thánh ca chúng ta hát có những lời hứa nguyện như:

 

Rao Tin Lành

Dầu mà ta lên trên núi cao, dầu vượt qua nơi biển sâu,

Dầu khi băng qua trong lửa cháy, vững chí ta nào đổi thay

Dầu mà quân binh đương phủ vây, quyền đời hăm ta giết đi

Tâm can vững chắc không kinh gì, vì lo cứu kẻ đương thì…

 

Khi hát những lời thánh ca này ta thường nghĩ đến cuộc đời của những giáo sĩ hi sinh tận tụy rao truyền Tin lành cứu rỗi cho nhiều nơi khó khăn nguy hiểm. Nhưng nhiều khi cầu nguyện theo ý Cha không phải là phải đi làm giáo sĩ, nhưng chỉ là hạ mình đến với một người mà mình căm ghét để xin lỗi va tha thứ, hay làm một công việc không mấy danh vang trong Hội thánh hoặc là giúp đỡ một người đang gặp nguy nan tổn hại đến tài chính hay sức lực của mình. Thì lúc ấy ta có chùn bước hay theo ý Cha mà hành động.  Đây là việc Chúa đưa đến để thử xem lòng tin của ta nơi Chúa có giá trị nào.

 

Chúng ta thường hát bài thánh ca có những lời như: Dâng tất cả cho Chúa.  Nhưng trên thực tế ta có trung tín dâng chỉ một phần mười lợi tức của mình luôn luôn hay không lại là chuyện khác. Vì lúc dâng tiền chúng ta thường quên đó là điều mình đã tuyên hứa với Chúa, và Chúa đã có kế hoạch sử dụng số tiền ta hứa dâng đó.

 

Nhiều khi ta cầu nguyện mà không chân thành lắm, chỉ nói lên những xáo ngữ thôi, nghĩa là không cam kết, tuyên hứa gì cả.  Chính vì vậy mà lời cầu nguyện không tạo được hiệu năng. Nhưng khi ta cầu nguyện hết lòng và với cam kết hứa nguyện, ta phải giữ đúng điều đã thưa với Chúa. Truyền đạo dạy rằng: Khi ngươi khấn hứa sự gì với Đức Chúa Trời, chớ chậm mà hoàn nguyện, vì Ngài chẳng thích kẻ dại:  vậy khá trả điều gì ngươi hứa.  Thà đừng khấn hứa, hơn là khấn hứa mà lại không trả. (Truyền đạo 5:3-4).

Khi ý thức được như vậy thì lời cầu nguyện của ta có kèm theo những cam kết và giữ đúng cam kết.

 

Hậu quả của việc “cầu nguyện theo ý Cha” là gì?

Ta hãy nhớ lại hình ảnh Chúa Giê-xu trong vườn Ghết-sê-ma-nê.  Sau khi cầu nguyện khẩn thiết tinh thần Chúa an tĩnh, không còn buồn như trước. Lúc ấy kẻ thù dẫn quân lính tới hung hăng bắt Chúa, trói lại, giải đi như tử tội, bị thóa mạ, đánh đập tàn nhẫn và cuối cùng bị hành hình trên thập giá. Chúa hoàn toàn bình thản đến nỗi còn cầu xin Cha tha tội cho kẻ đã hành hại Ngài.

 

Chúng ta rất cần thái độ bình tĩnh trước nguy nan và đau thương tầm thường trong đời, nhưng làm sao có được thái độ đó nếu không cầu nguyện “xin ý Cha được nên” ? Ta nên nhớ rằng Chúa lúc nào cũng muốn ta được an bình và sung sướng, và Chúa có thể làm mọi điều mà ta giới hạn về nhiều mặt không thể tự làm được.

 

Cầu nguyện theo ý Cha không có nghĩa là ta thụ động không kế hoạch và không quyết định xin Chúa những điều khác.  Chúa sử dụng mỗi chúng ta cho các mục đích của Ngài và Ngài muốn chúng ta nhận được những ân tứ và phước hạnh riêng để áp dụng. Nhưng ưu tiên tất cả, Chúa muốn chúng ta đặt Chúa ở hàng cao nhất.  Chúa Giê-xu từng dạy:

 

Nhưng trước hết, hãy tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài, thì Ngài sẽ cho thêm các ngươi mọi điều ấy nữa. (Ma-thi-ơ 6:33).

 

Vấn đề khó ở đây là ta phải đem ý của ta đầu phục ý Chúa. Rất nhiều khi ta không biết ý Chúa như thế nào, những lúc ấy phải nhờ đến đức tin.

 

Một nữ tín hữu đến xin mục sư cầu nguyện cho con trai đang bệnh nặng. Mục sư hỏi: “Nếu bà biết rằng Chúa muốn cậu ấy về với Chúa thì bà có bằng lòng không?” Bà ấy ngần ngừ trong giây lát rồi nói: “Vâng, nếu tôi biết đó là ý Chúa cho cháu thì tôi bằng lòng chứ!” Mục sư cầu nguyện cho cậu trai đó và em được lành. Nhiều khi sự việc có thể xẩy ra ngược lại. Nhưng điều mà chúng ta cần xác định là ý Chúa bao giờ cũng là tốt nhất. Nếu chúng ta tin rằng lời cầu nguyện của ta Chúa luôn luôn nghe và đáp lời, thì chúng ta yên tâm giao thác mọi sự việc xảy ra trong ý Chúa.

 

Lời Chúa hứa rằng: Trong khi cầu nguyện, các ngươi lấy đức tin xin việc gì bất kỳ, thảy đều được cả. (Ma-thi-ơ 21:22). Chữ quan trọng trong câu này là “lấy đức tin”. Nhiều khi chúng ta không hiểu Chúa có nghe lời chúng ta cầu xin hay không, và nếu nghe, Chúa có nhậm lời và đáp ứng hay không?

 

Câu chuyện trong Phúc âm Mác 9:20-27 như sau:

Chúng bèn đem đứa trẻ cho Ngài. Đứa trẻ vừa thấy Đức Chúa Giê-xu, tức thì ngã xuống đất, rồi lăn lóc sôi bọt miếng ra.  Đức Chúa Giê-xu  hỏi cha nó rằng: Điều đó xảy đến cho nó đã bao lâu? Người cha thưa rằng: Từ khi nó còn nhỏ.  Quỉ đã lắm phen quăng nó trong lửa và dưới nước, để giết nó đi; nhưng nếu thầy làm được việc gì, xin thương xót chúng tôi và giúp cho!  Đức Chúa Giê-xu đáp rằng: Sao ngươi nói: Nếu thầy làm được? Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả. Tức thì cha đứa trẻ la lên rằng: Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!  Khi Đức Chúa Giê-xu thấy dân chúng chạy đến đông, thì Ngài quở trách tà ma và phán cùng nó rằng: Hỡi quỉ câm và điếc, ta biểu mầy phải ra khỏi đứa trẻ nầy, đừng ám nó nữa.  Quỉ bèn la lớn tiếng lên, vật đứa trẻ mạnh lắm mà ra khỏi; đứa trẻ trở như chết vậy, nên nỗi nhiều người nói rằng: Nó chết rồi. Nhưng Đức Chúa Giê-xu nắm tay nó, nâng lên; thì nó đứng dậy.

 

Người cha đứa bé thưa với Chúa rằng: “Nếu thầy làm được việc gì…”Đây là một câu thách thức đối với Chúa, nhưng Chúa nhẹ nhàng nói: “Sao ngươi nói: nếu thầy làm được? Kẻ nào tin thì mọi việc đều được cả.” Câu nói của Chúa có nghĩa là: Chữ “nếu” là chỉ dùng cho khả năng của con người, đối với Chúa thì kẻ xin nếu đã có lòng tin, thì việc phải thành. Như thế chỉ có một giới hạn cho việc cầu nguyện là giới hạn của đức tin mà thôi.

 

Đức tin là gì vậy? Đó là cái nhìn trong tâm linh. Đó là khi ta nhìn thấy điều mà ta mong được thành trong đời mình. Trước khi một toà nhà được xây dựng, thì kỹ sư kiến trúc phải vẽ kiểu. Toà nhà ấy phải được thiết kế trên bản vẽ, và toà nhà nào đã thiết kế bản vẽ thì có thể xây lên thực tế.

 

Tin là vẽ ra trong tâm hồn ta một bản vẽ, và khi đã có bản vẽ đó thì từ “không thể xẩy ra” biến mất hẳn khỏi tâm hồn ta. Khi ta thấy bản vẽ rõ ràng trong tâm trí, dù chưa phải là sự thật, nhưng ta biết có thể thực hiện. Để giúp cho việc tin xin đề nghị ba bước cơ bản như sau:

 

1. Ghi ra giấy vấn đề. Bạn sẽ thấy hơi khó lúc đầu, nhưng cứ chịu khó viết ra. Trước khi người kỹ sư xây dựng quyết định vẽ bản đồ chính của một công trình, người ấy phải vẽ phác ra nhiều hình vẽ rồi tẩy xóa, cuối cùng mới nối các đường nét lại với nhau.

2. Sau khi bạn đã có bản viết điều mà bạn muốn, hãy đọc đi đọc lại nhiều lần mỗi ngày, thêm bớt thay đổi các chi tiết.  Sau khi đã bằng lòng với bài viết, hãy rút gọn bài viết lại còn trong vòng năm chục chữ mà thôi.

3. Xem xét mọi nguồn của bạn và tự hỏi: giá phải trả cho vấn đề khi được Chúa đáp lời là gì? Thường thì lúc đó Chúa đã trả lời cầu nguyện rồi. Nói như thế nghĩa là vào lúc đó Chúa đã ban cho nguồn để cung ứng và chỉ còn chờ bạn sử dụng cho đúng mà thôi. Nhưng đôi khi chúng ta không muốn Chúa đáp lời vì giá thành quá cao. Nên nhớ rằng đôi khi Chúa trả lời cầu nguyện không cần phụ thuộc vào ta, nhưng thường thì Ngài trả lời qua ta.

 

Chúa muốn cho mỗi chúng ta có cuộc đời sung sướng và thành công. Dù khi ta chưa cầu nguyện thì Chúa đã cung ứng các nguồn cung cấp – như một trí óc suy nghĩ, các bàn tay làm việc, những người bạn giúp đỡ và cổ võ, và một thế giới vô cùng phong phú. Có lẽ Chúa đã nói với bạn như ông già Ca-lép nói với đoàn người Israel trẻ tuổi ngày xưa rằng:

 

Ca-lép bèn làm cho dân sự, đương lằm bằm cùng Môi-se nín lặng đi, mà nói rằng: Chúng ta hãy đi lên và chiếm xứ đi, vì chúng ta thắng hơn được.(Dân-số-ký 13:30).

 

Riêng vấn đề trả lời cầu nguyện, ta nên nhớ lời Chúa Giê-xu nói với người bại liệt 38 năm. Người ấy cầu xin cho được chữa lành nhưng Chúa hỏi thẳng anh ta: “Ngươi có muốn lành chăng?” (Giăng 5:6) Có thể diễn ý câu này là: Anh có thật sự muốn lời cầu xin được đáp ứng hay không? Rồi Chúa bảo: “Hãy đứng dậy, vác giường ngươi và đi.” Nghĩa là Chúa đã đáp lời cầu nguyện rồi nhưng anh ta chưa biết phải làm gì, và như thế nào. Ta có thể hiểu là phải lấy đức tin bước đi để chứng nghiệm là mình được chữa lành chứ!

 

Một bà đã bệnh khá lâu, cầu nguyện và được Chúa chữa lành. Nhưng một hôm bà ấy nghe như Chúa hỏi: Có phải con chỉ muốn lành như vậy thôi sao? Bà ấy suy nghĩ về câu hỏi và nhận thấy rằng bà ấy lành bệnh nhưng không hoạt động gì cả, mọi thứ trong nhà không thu giọn và không lau chùi nhà cửa.  Chúa rõ ràng là muốn nhắc bà ấy: Khi con hoạt động trở lại bình thường, con sẽ cảm thấy mình lành mạnh thật sự.  Sau đó bà này đã hoàn toàn bình phục.

 

Nhiều khi ta cầu nguyện, Chúa đáp lời nhưng dường như không đủ tài nguyên. Ta nên mạnh bạo cầu xin Chúa cho tài nguyên nữa, vì không việc gì khó quá cho Chúa đâu.

 

Điều kiện cao nhất để nhận được sự cứu giúp từ Chúa là gì?

 

Ta trở về với gương cầu nguyện của Chúa Giê-xu:

Chúa Giê-xu cầu nguyện nhiều lần, nhưng cao điẻm của việc cầu nguyện của Chúa là tại vườn Ghết-sê-ma-nê. Mục đích mà Chúa đã chuyên tâm đạt đến là việc xây dựng Nước Đức Chúa Trời trên mặt đất này. Vì khi Chúa 12 tuổi, Ngài đã bắt đầu công việc đó và nói rằng:

 

Khi cha mẹ thấy Ngài, thì lấy làm lạ, và mẹ hỏi rằng: Hỡi con, sao con làm cho hai ta thể nầy? Nầy, cha và mẹ đã khó nhọc lắm mà tìm con.  Ngài thưa rằng: Cha mẹ kiếm tôi làm chi? Há chẳng biết tôi phải lo việc Cha tôi sao?  Nhưng hai người không hiểu lời Ngài nói chi hết.(Lu-ca 2:49)

 

Nhưng tại Ghết-sê-ma-nê hôm ấy dường như mọi sự đều tan rã cả. Một môn đệ phản Ngài. Sự thù ghét âm ỷ lâu nay trong giới lãnh đạo chính trị và tôn giáo sắp bùng nổ. Mọi việc Ngài đang xây dựng phải hoàn tất trong vài năm nữa và Chúa không muốn chết. Vì vậy Chúa cầu nguyện : “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này khỏi con,”

 

Sự cám dỗ lớn trong đời người là khi chúng ta theo sở thích của mình, lập kế hoạch theo ý mình và mong rằng Chúa cũng đồng ý. Nhưng giả như Chúa không ưng thuận thì sao? Chúng ta chỉ có một trong hai điều lựa chọn: Khước từ ý Chúa và theo ý mình hay là khước từ ý mình mà theo ý Chúa. Nhiều khi chúng ta phải lựa chọn mà không biết đâu là ý Chúa. Trong trương hợp đó đòi hỏi nhiều đức tin hơn nữa. Vì không dễ quyết định đâu. Cuộc tranh đấu của Chúa rất gay go, đến nỗi mồ hôi nhỏ giọt như hạt máu.

 

Nhưng Chúa đã thắng khi Ngài nói: “Dầu vậy, xin ý Cha được nên, chứ không theo ý con.”(Lu-ca 22:42). Nhưng ta đừng bỏ qua chi tiết Lu-ca ghi câu sau đó: “Có một thiên sứ từ trên trời hiện xuống cùng Ngài, mà thêm sức cho Ngài.”

 

Làm theo ý Cha rất khó, nhưng Chúa Cha đã biết tất cả và cung ứng nhu cầu đầy đủ.

Chúng ta hãy noi gương Chúa Giê-xu mà cầu nguyện để ý Cha luôn luôn được nên trong đời mỗi chúng ta.