Duyệt bởi
Category: NGHIÊN CỨU – DƯỠNG LINH – LỜI CHỨNG

Điều Cần và Điều Thích

Điều Cần và Điều Thích

Mọi sự đều có phép làm nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích, mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt” (I Cô-rinh-tô 10: 23) hoặc ( I Cô-rinh-tô 6:12).

Nhu cầu và lòng ham muốn thật khác biệt nhau! Nhưng trong cuộc sống chúng ta cứ luôn bị nhầm lẫn với sự chọn lựa về điều tôi thích và điều tôi cần. Những ngày giáp Tết, là phụ nữ tôi phải cứ luôn suy nghĩ, đắn đo những điều mình cần, gia đình cần với những điều cá nhân thích, gia đình thích… Đứng trước những gian hàng trưng bày nhiều mặt hàng bắt mắt, có khi là những hàng hiệu nổi tiếng thật đẹp! Lắm lúc nhặt lên xem rồi lại để xuống, về giá cả thì hàng hoá tuỳ thuộc vào chất liệu và chất lượng! Một lý do tôi luôn phân vân để chọn lựa hàng hoá cho mình là “tôi thật sự cần hay tôi chỉ thích?” Nếu chỉ thích thì chắc chắn sẽ có lúc chán! Và tôi quyết định chỉ mua sắm nhũng cái tôi thật sự cần.

Nhờ vậy, năm nay tôi để dành một khoảng chi tiêu mà mình được phép sử dụng để dùng trong công việc có ích khác. Tôi nhớ đến những Điểm Nhóm mà chúng tôi đã khai phá, chăm sóc, gây dựng tại một Chi Hội mà tôi đã hầu việc Chúa. Hằng năm, ngày mùng Một Tết họ trở về Hội Thánh để thờ phượng Chúa. Sau buổi nhóm họ được thết đãi những khoanh bánh tét, bánh chưng… họ rất vui. Cũng như để chuẩn bị Tết, được nhận những món quà nhu yếu phẩm họ rất mừng, vì số đông là những người nghèo.

Dầu đã đi xa, nhưng lòng tôi vẫn nhớ đến anh chị em tại những nơi đó, cầu nguyện cho họ và giúp đỡ họ, chia sẻ cho họ để họ cùng có cái Tết vui vẻ. Kinh Thánh trong I Cô-rinh-tô 10:23 chép: “ Mọi sự đều có phép làm nhưng chẳng phải mọi sự đều có ích, mọi sự đều có phép làm, nhưng chẳng phải mọi sự đều làm gương tốt”. Những ngày Tết là cơ hội mọi người, mọi nhà phô trương những điều mình có được, mình sắm được… từ vật dụng, thức ăn, áo quần, trang thiết bị, nhà cửa, các chậu hoa… nhiều người đua nhau mua sắm, có khi chi phí rất “bạc mạng” hoặc “quá máu”… Nhưng rồi chỉ là dăm ba ngày Tết!

Kinh Thánh trong sách Ga-la-ti 6:2, Chúa dạy: “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đấng Christ”. Vào những ngày giáp Tết cũng có nhiều đoàn cứu trợ hoặc chia sẻ những món quà tình thương đến những gia cảnh thiếu thốn, khó khăn…. Đó là hành động gánh những gánh nặng cho nhau, và khi chia sẻ tức bày tỏ lòng yêu thương, cũng như yêu thương không thể không chia sẻ. Cơ Đốc nhân sống yêu thương, chia sẻ những gì mình có cho những người thiếu thốn là đã làm trọn luật pháp Đấng Christ, đó là những nghĩa cử đẹp lòng Chúa và vinh hiển danh Ngài.

Nhũng ngày giáp Tết sao trôi qua nhanh quá! Là phụ nữ chúng ta cũng thường bị áp lực trước một khối công việc nhà không tên: chùi rửa, dọn dẹp, mua sắm, may vá, bếp núc… phụ nữ khôn ngoan phải có kế hoạch để không bị dồn dập công việc và không bị mệt mỏi quá sức. Phải sắp xếp điều cần và gấp được làm trước, điều nào không gấp thì được lên thời khoá biểu để làm dần. Là phụ nữ trong gia đình, không nhất thiết phải ôm hết công việc, nhưng khôn ngoan sắp xếp và kêu gọi sự đóng góp của toàn thành viên trong gia đình. Tôi thấy thật vui và hạnh phúc khi mọi người trong nhà đều có bổn phận và đều có công việc phải làm trong công tác chuẩn bị đón xuân.

Trong tinh thần vui xuân, Chúa luôn nhắc nhở chúng ta về sự quan tâm, yêu thương: “khóc với kẻ khóc, vui với kẻ vui”, nói lên sự đồng cảm, chia sẻ, yêu thương. Chúa cũng khuyên chúng ta: “Hãy cung cấp sự cần dùng cho các thánh đồ”, cũng như “hãy ân cần tiếp khách”. Nếu mỗi Cơ Đốc nhân tiết chế điều mình thích, thì chắc chắn sẽ có phần dư để giúp cho người thiếu thốn, khó khăn trong vòng những người Cơ Đốc.

Những ngày xuân cũng là những ngày mọi người bày tỏ lòng hiếu khách, tiếp đón khách trong sự ân cần. Ân cần trong sự thông công cầu nguyện, thăm hỏi và thông công trong bàn tiệc có Đấng Christ chung dự (I Cô-rinh-tô 10:31): “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống hay làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển Đức Chúa Trời mà làm”. Nếu Cơ Đốc Nhân quên tiếp khách nghĩa là chúng ta có khi bỏ mất cơ hội tiếp đón thiên sứ của Chúa mà không biết (Hê-bơ-rơ13:2).

Ước mong một mùa xuân ý nghĩa khi chúng ta biết chọn lựa điều đúng, điều cần trong mua sắm và trong việc sử dụng thời giờ, cũng như trong nếp sống yêu thương, chia sẻ và tiếp khách.

Tại Sao Dân Do Thái Không Thể Bị Lãng Quên (Phần 1)

Tại Sao Dân Do Thái Không Thể Bị Lãng Quên (Phần 1)

Mart De Haan

 

TẠI SAO DÂN DO THÁI KHÔNG THỂ BỊ LÃNG QUÊN [1]

Trong vở nhạc kịch Fiddler “Trên mái nhà”, Jevyer, người cha có đầu óc truyền thống của một gia đình Do Thái, biết rằng là “một dân tộc được Chúa lựa chọn” có cái bất lợi, khó khăn của nó Trong lời cầu nguyện nổi tiếng của mình về gánh nặng của dân Do Thái phải mang, ông ta đã than thở rằng:”Tôi biết, tôi biết. Chúng tôi là những người đã được Ngài lựa chọn, nhưng đôi khi tại sao Ngài lại không lựa chọn một dân tộc nào khác?” Nhưng tại sao chỉ dân tộc tôi được biết đến như là một “quốc gia đã được đặc ân” trong những chương Kinh Thánh dường như đã được định sẵn cho rắc rối và xung đột quốc tế? Các trang sau đây cho thấy các vấn đề không chỉ là dầu mỏ, sự ổn định ở Trung Đông, hoặc thách thức trong sự ủng hộ phía Ysơ-ra-ên hoặc các nước láng giềng, vấn đề thực sự là về một nguyên tắc “một cho tất cả” mà không ai trong chúng ta có thể bỏ qua.

DÂN DO THÁI ĐÃ ĐƯỢC ĐỊNH TRƯỚC ĐỂ THU HÚT SỰ CHÚ Ý

CỦA CHÚNG TA.

Dù yêu hay ghét, thì mảnh đất, con người, và câu chuyện về dân Do Thái vẫn là một thỏi nam châm. Từ khắp nơi trên thế giới, các du khách Do Thái, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo lủ lượt kéo về phi trường Ben Gurion ở Tel Aviv chỉ để ngắm xem một vài mẩu đất gắn liền với những suy nghĩ và niềm tin sâu sắc nhất của họ. Từ những thành phố, những ngọn núi và những thung lũng của nó, những người hành hương xúc động nhìn chăm chăm vào quá khứ của người khác để suy nghĩ về chính tương lai của họ.

Những con người của mảnh đất này xác định có cùng một cha

Hầu hết những người đến đây đều xác nhận một mối quan hệ với một người cha đã từng không có con. (Sáng Thế Ký 15:2) Người Á-rập tự cho mình là con trai đầu lòng của Áp-ra-ham tên là Ích-ma-ên. Người Do Thái đã lần ra di sản của họ qua người con trai thứ hai là Y-sác. Những người Cơ Đốc xem họ như là những đứa con nhiệm mầu của đức tin Áp-ra-ham.(Ga-la-ti 3:7).

Do Thái là một địa điểm chiến lược.

Được định vị từ một chiếc cầu cổ trên mặt đất, và lần theo con đường tơ lụa tới Phi châu, Á châu và Âu châu, thì nước DoThái cổ nằm ở ngã ba đường của thế giới. Ngày nay, Do Thái vẫn được thế giới quan tâm nhiều hơn. Sau Cuộc Tàn Sát dân Do Thái (Holocaust), họ đã trở về nơi quê cha đất tổ của họ từ khắp nơi trên thế giới, và xung đột đã tái diễn với các nước láng giềng giàu dầu mõ .

Vì cả hai lý do mới và cũ, thế giới cảm thấy như bị bắt buộc theo dõi dân DoThái để bảo vệ những quyền lợi của họ.

Mảnh đất Do Thái là một sân khấu.

Tại các điểm rộng nhất và dài nhất của Do Thái, phong cảnh trải đá của nó là một cái bệ có diện tích 260×60 dặm, mà trên bệ này hầu hết những bi kịch quan trọng của lịch sử đã diễn ra trước một thế giới đang theo dõi họ. Câu chuyện của nó là một câu chuyện tình lãng mạn không thể diễn tả hết, và là một bi kịch của một nỗi đau vô tận. Không có một quốc gia nào khác đạt tới đỉnh khá cao rồi lại chìm xuống khá thấp. Không một quốc gia nào khác đã bị phân tán và tan tác lẩn lộn trong các nước trên thế giới và sau đó lại trở về lập quốc nơi quê cha đất tổ của mình. Không một quốc gia nào khác đã làm được nhiều như vậy để cung cấp một sân khấu và một phông nền cho câu chuyện vĩ đại nhất như dân Do Thái.

Câu chuyện của nó có ý nghĩa quốc tế.

Theo Kinh Thánh, những ghi chép về lịch sử của dân Do Thái cho chúng ta biết về Chúa chúng ta, chính bản thân chúng ta, và mối liên hệ của chúng ta với nhau. Trong những khoảnh khắc tốt nhất và tồi tệ nhất của một dân tộc được lựa chọn, một vùng đất hứa và một Đấng Mê-si-a đã chờ đợi từ lâu, chúng ta tìm thấy quá khứ của chúng ta. Trong những dự đoán của các nhà tiên tri, chúng ta tìm thấy tương lai của chúng ta.

Những người có cơ hội thăm viếng vùng đất này không nhất thiết phải làm tốt hơn bằng cách đi tới đền thờ của dân Do Thái hoặc nơi Chúa Giê-xu đã thường tản bộ.

Những tấm lòng không phải luôn luôn biến đổi khi chạm vào Bức Tường Than Khóc hoặc nhìn vào phong cảnh Ha-ma-ghê-đôn của thung lũng Gít-rê-ên. Nhưng các người viếng những thung lũng trước mặt họ là bằng chứng hữu hình về một bi kịch đang trải ra của Đức Chúa Trời.

________________________________________________

Trong một thế giới mà thuyết Đa nguyên phát triển mạnh,

ở đây chúng ta tìm thấy câu chuyện về một dân tộc đã được chọn

và một vùng đất hứa cho tất cả các dân tộc.

________________________________________________

Trong một thế giới mà thuyết Đa nguyên phát triển mạnh, ở đây chúng ta tìm thấy câu chuyện về một dân tộc đã được chọn và một vùng đất hứa cho tất cả các dân tộc.

Theo Kinh thánh, những người được chọn cho vùng đất này đã được kêu gọi để nói lên cho toàn thế giới biết về Thần của các thần và Vua của các vua. Đất nước đã hứa đối với họ có cùng một ý nghĩa. Nó đã được ban cho để chứng tỏ cho mọi nước thấy rằng Đức Chúa Trời là sự an ninh và thỏa mãn tột cùng cho tất cả những ai tin cậy Ngài.

NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA NGUỜI LÁNG GIỀNG CỦA DO THÁI

ẢNH HƯỞNG ĐẾN TẤT CẢ CHÚNG TA.

Dòng máu nhơ nhớp ở vùng Trung Đông đã chảy từ thế hệ này sang thế hệ khác như một dòng sông dầu và nước lâu đời. Từ những ngày của Áp-ra-ham cho tới thời tin tức nóng hổi của chúng ta dường như không có sự kết thúc về việc kình địch và chết chóc giữa Ích-ma-ên và Y-sác. Sự xung đột đã bắt đầu từ thời các tộc trưởng của người Á-rập và Do Thái, đã ảnh hưởng đến tất cả chúng ta, nó khiến chúng ta phải mất tiền cho chi phí xănng dầu. Nó thậm chí cũng khiến chúng ta chia rẽ tại nhà thờ. Một số người trong chúng ta nghĩ rằng đức tin của chúng ta đòi hỏi chúng ta phải ủng hộ Y-sơ-ra-ên. Những người khác nghĩ rằng theo thần học “Người Sa-ma-ri nhân lành” thì, phải ủng hộ Pa-lét-tin.

Một số người trong chúng ta nghiêng về phía Y-sơ-ra-ên.

Một số người trong chúng ta đã thông cảm với sự đấu tranh của người Do Thái cho quê hương của họ. Chúng ta nhớ rằng Đức Chúa Trời của Kinh Thánh đã ban miền đất hứa cho các con cháu của Áp-ra-ham. Chúng ta cảm thấy bối rối khi một số giáo phụ Hội Thánh bày tỏ sự khinh thường đối với đất nước Y-sơ-ra-ên, và chúng ta muốn tách ra khỏi bất cứ sự hận thù dân tộc  như Ha-man ngày xưa (Ê-xơ-tê 3:6) hoặc một Hít-le hiện đại. Một số chúng ta thấy sự hồi sinh của Do Thái không chỉ là bằng chứng cho sự thật của Kinh Thánh mà còn là sự khẳng định cho quan điểm của chúng ta về lời tiên tri. Điểm quan trọng hơn cả là chúng ta tin Đức Chúa Trời của Kinh Thánh khi Ngài phán với Áp-ra-ham rằng: “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con; mọi dân trên đất sẽ nhờ con mà được phước.” (Sáng Thế Ký 12:3; Công vụ13:5). Nhưng trong quá trình này, chúng ta cũng có thể bỏ qua một số sự kiện khác. 

Chúng ta có khuynh hướng hay quên quan tâm đến người Á-rập.

Chúng ta thường quên rằng. “Chúc phước” là biểu lộ một sự mong ước điều tốt lành cho người khác và vì vậy dân Do Thái đã được chọn là nguồn phước hạnh cho toàn thế giới. (SángThế Ký 12:1-3) Thật chính xác là tín đồ Đấng Christ được khuyến cáo không nên nguyền rủa ai.(Rô-ma 12:14)

Trong khi chúng ta nhận ra nhu cầu về quê hương của người Do Thái, thì một điều quan trọng là chúng ta cũng phải xem xét đến những gia đình không phải là Do Thái mà tổ tiên của họ đã cấp đất để họ canh tác trên mảnh đất mà dân Do Thái đã bị mất sau năm 70 SCN. Nhiều người trong số họ đã tìm về cội nguồn của mình qua người cha Áp-ra-ham.

Có thể chúng ta đã quên tình yêu của Chúa đối với Ích-ma-ên.

Mặc dù Ích-ma-ên đã được sinh ra trong nhà Áp-ra-ham và Sa-ra, anh ta đã được thụ thai như một kết quả của mối quan hệ của cha anh ta với một người đàn bà Ai Cập tên là A-ga. Theo đề nghị của Sa-ra, Áp-ra-ham đã thành cha của một đứa trẻ với một con đòi ở trong nhà. Nhưng sự cố gắng để giải quyết việc không con của họ đã sinh ra những sự ganh tị trong gia đình. Sau này, sau khi Sa-ra thụ thai được một con trai cách kỳ diệu, thì lại nảy sinh ra sự xung đột giữa hai người con trai và các người mẹ của họ. Theo yêu cầu của Sa-ra, Áp-ra-ham đã đuổi A-ga và Ích-ma-ên ra khỏi nhà. Theo sách Sáng Thế Ký 21:17-20, Chúa đã đáp lời một cách nhân hậu đối với những giọt nước mắt của A-ga. Thiên sứ của Đức ChúaTrời đã đặt tên cho con trai bà là Ích-ma-ên, có nghĩa là: “Đức Chúa Trời đã nghe sự sầu khổ của ngươi.”(Sáng Thế Ký 16:11)  Tuy nhiên, trong quá trình vùa giúp A-ga và Ích-ma-ên, Chúa đã cảnh báo những hậu quả đau buồn do những hành động của Áp-ra-ham gây ra. Về đứa trẻ mà Áp-ra-ham và Sa-ra đã đuổi ra đồng vắng, Đức Chúa Trời đã phán rằng: “Nó sẽ là một con lừa rừng; tay  nó sẽ địch cùng mọi người, và tay mọi người sẽ địch lại nó. Nó sẽ ở đối mặt cùng hết thảy anh em mình” (Sáng Thế Ký 16:12). Ích-ma-ên dường như đã được định trước để cho chúng ta nhận ra anh ta sẽ làm đau khổ mọi người. Việc bị đuổi ra khỏi nhà có thể đóng góp vào sự tiếp cận của chính anh ta đối với cuộc sống, và quan điểm sinh tồn đã trở thành một phần di sản của anh ta.

Chúng ta cần nhớ rằng Đức Chúa Trời chọn một cho tất cả.

Vài sự kiện có thể giúp chúng ta cân bằng sự hiểu biết của chúng ta về điều mà Đức ChúaTrời đã làm với Y-sác và Ích-ma-ên.

  1. Việc Chúa chọn lựa Ap-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp được xem như là “một lời hứa tốt lành”  cho mọi người chứ không chỉ cho con cái họ. Từ buổi sáng thế, Đức Chúa Trời của Kinh Thánh đã xác định rõ ràng là Ngài đã chọn một dân tộc cho tất cả mọi người.

(Sáng 12:1-3)

  1. Mặc dù Sáng Thế Ký đã tiên đoán rằng Ích-ma-ên sẽ trở thành một tên phản loạn, cũng có những tên tuổi và những tiên đoán kém hấp dẫn trong di sản của dân Do Thái. Gia-cốp là cha của 12 bộ lạc Do Thái, tên này được đặt lúc sinh ra có nghĩa là “kẻ phản bội hay kẻ lừa dối”. Sau này các nhà tiên tri Do Thái mô tả chính đất nước của họ như là “một con điếm” (Giê-rê-mi 2:20) ,”một con lừa hoang”, (Giê-rê-mi 2:24) và như là một cộng đồng khiến cho Sô-đôm và Gô-mô-rơ được xem là tốt đẹp khi so sánh với nó.

(Ê-xê-chiên 16:48-52)

  1. Theo Kinh Thánh, là một dân tộc được chọn đã là một gánh nặng. Không những họ được lựa ra để cho thế giới thấy quyền năng và lòng tốt của Đức Chúa Trời chân thật, duy nhất mà nó còn cho tất cả mọi dân trên đất thấy hậu quả khi chúng ta đi lang thang xa cách tình yêu và sự khôn ngoan của Đấng Tạo Hóa của chúng ta. (Phục Truyền 28-30)
  2. Ngay cả nếu có bàn tay Chúa trong việc tái lập của dân Do Thái, thì tình trạng tâm linh của quốc gia này luôn là một vấn đề. Vào thế kỷ thứ 6 TCN, nhà tiên tri Ê-xê-chi-ên đã tiên đoán trong sự khải thị của ông ta về những bộ hài cốt rằng trong những ngày cuối cùng, dân Do Thái sẽ nhóm họp cùng nhau về phương diện thể xác trước khi được phục hưng về phương diện tâm linh. (Ê-xê-chi-ên 37:1-14) Chỉ một lý do đó thôi, có thể có sự khác biệt giữa điều mà Chúa đang làm cho dân Y-xơ-ra-ên và điều mà họ đang làm khi không có sự hiện diện của Ngài.

           ________________________________________________

Có lẽ có sự khác biệt giữa điều mà Chúa đang làm

trong dân Y-sơ-ra-ên và điều mà dân Y-sơ-ra-ên đang làm

khi không có sự hiện diện của Chúa.                        ________________________________________________

  1. Nếu dân Y-sơ-ra-ên cố tìm sự an ninh từ sức mạnh quân đội hoặc những đồng minh quốc tế, thì điều đó có thể lập lại lỗi lầm của Áp-ra-ham và Sa-ra trong việc cố tìm một đứa con trai từ A-ga. Vậy có cách nào tốt hơn không? Theo chương trình của Đức Chúa Trời là Đấng đã chọn dân Y-sơ-ra-ên cho mục đích riêng của Ngài, thì câu trả lời là chắc chắn có.
Nhận Biết Chính Giáo Và Tà Giáo

Nhận Biết Chính Giáo Và Tà Giáo

Đất nước Việt Nam mở cửa phát triển và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu cũng nẩy sinh nhiều điều lo ngại về thật và giả, tốt và xấu, thiện và ác… những vấn đề này thật khó để một người có thể phân biệt mau chóng và chính xác. Nếu vào Google thử tra xem vấn đề “thật và giả”, chỉ trong 0,28 giây, đã cho ra 40.700.000 kết quả bằng tiếng Việt những bài viết và hình ảnh. Điều này phản ánh cái giả, cái xấu, cái ác xuất hiện khắp nơi đang len lỏi, đang làm hại, đang lôi kéo nhiều người vì lợi ích bất chấp thủ đoạn, bỏ qua chuẩn mực đạo đức, đánh đổi phẩm giá của mình. Người dân luôn mong chờ các biện pháp dư luận phê phán của xã hội; luật pháp, công cụ và các phương tiện của chính quyền đem lại sự ngăn chận hiệu quả hơn. Trong phương diện tâm linh, thời gian gần đây trên các phương tiện truyền thông và mạng xã hội đã xuất hiện nhiều cảnh báo về tà giáo “Hội Thánh của Đức Chúa Trời” hay “Đức Chúa Trời Mẹ”, hoạt động không chỉ có hại cho người tin theo, mà còn đổ tiếng xấu cho đạo Tin Lành tại Việt Nam.

Lịch sử Hội Thánh cho biết tà giáo xuất hiện từ rất sớm ngay khi thành lập Hội Thánh đầu tiên, Cơ Đốc giáo có sinh lực và năng quyền được người dân yêu mến, càng ngày càng đông người gia nhập, nên cũng đã có những người tin theo đạo “giả hiệu”. Sách Công Vụ Các Sứ Đồ có ghi nhận đến một vài người có mưu đồ lợi dụng niềm tin như vợ chồng A-na-nia và Sa-phi-ra, thuật sĩ Si-môn, Ê-ly-ma, các con trai của Sê-va đi rong trừ tà…[1] Những kẻ này dễ nhận ra nên không gây tai hại cho Hội Thánh bao nhiêu, nhưng các tà giáo giải thích Phúc Âm thêm bớt theo ý riêng của những người cầm đầu tai hại rất nhiều. Cộng đồng con dân Chúa đón nhận bất cứ ai đến gia nhập, bầu không khí tự do tạo cho những người có tư tưởng huyền bí cơ hội dung nạp triết học Hy Lạp, các đạo giáo Đông phương, những giáo huấn của đạo Do Thái vào giá trị đức tin Cơ-Đốc. Tất cả được gọi là “trí thức” bí ẩn hứa hẹn sự cứu rỗi cho những ai được ‘khai tâm’, được soi sáng tâm linh đã làm nên tà thuyết Trí huệ phái. Giáo thuyết tri thức cực đoan này gây ra tranh cãi, chia rẽ nguy hại cho niềm tin Cơ Đốc.[2] Tuy nhiên, để đối phó với những tư tưởng giáo thuyết này lại tạo ra dịp tiện giúp người ta cẩn thận tra xem Kinh Thánh, hiểu Phúc âm sâu sắc hơn và được thử nghiệm để vững vàng trong đức tin.

Thứ nhất, xưa và nay, các tà giáo cũng hình thành theo một cách như nhau, đánh lừa người ta giữa thật và giả, tốt và xấu, thiện và ác, khiến nhiều người tưởng thật để chọn lựa đặt niềm tin của mình, nhưng rồi sau đó thất vọng hối tiếc, vì mất mát, vì chẳng đem lại cho ai sự cứu rỗi thật sự nào qua các giáo thuyết này. Tà giáo “Đức Chúa Trời Mẹ” hay “Hội Thánh của Đức Chúa Trời” bắt đầu từ một người Hàn quốc có tên là An Xang Hồng (Ahn Sahng-hong 1918-1985) sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Phật giáo. Năm ông ba mươi tuổi gia nhập đạo Cơ Đốc Phục Lâm, không bao lâu sau đó An Xang Hồng bị khai trừ vì cho mình nhận được mặc khải mới, dự báo ngày giờ tận thế.

An Xang Hồng lôi kéo theo vài chục người theo mình và thành lập một tôn giáo thần bí mang nhiều danh xưng khác nhau như “Hội Thánh của Đức Chúa Trời”, “Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ”[3]. Khi đạo này du nhập đến Việt Nam đã lấy danh là “Hội Thánh của Đức Chúa Trời Hiệp Hội Truyền Giáo Tin Lành Thế Giới” (World Mission Society Church of God). Danh xưng này làm cho nhiều người Việt lầm tưởng là một giáo phái chính thống của đạo Tin Lành.

An Xang Hồng được xưng là “Chúa”, là “Thánh Linh”, là “Đức Chúa Trời” đã đến trần gian[4].

Hình ảnh bài cầu nguyện chung với Cha Đấng An Xang Hồng

 

Trong việc giảng dạy ông nhấn mạnh phải gia nhập vào nhóm của mình thì mới được cứu rỗi nếu không tin sẽ bị trầm luân hư mất[5].

Mộ phần của ông An Xang Hồng và vợ thật là bà Hwang Won Sun.

Vào năm 1985 ông đã qua đời lúc 67 tuổi, một người phụ nữ là Jang Gil Ja tiếp tục lãnh đạo tà đạo này, phong thánh cho An Xang Hồng là Đức Chúa Trời, còn bà hiện còn sống trở thành mẹ Đức Chúa Trời[6].

Sao chép Thánh ca 513 tôn vinh Đức Chúa Trời, thành bài hát ca ngợi An Xang Hồng

 

Lúc đầu chính quyền Hàn Quốc bỏ qua và không chú ý đến nhóm người ít ỏi này, cho đến khi tà đạo lớn mạnh trở nên nan đề của xã hội.

Những chủ trương gian dối, không chân thật của An Xang Hồng đã bị phô bày vào đầu năm 1999, chương trình SBS TV Hàn Quốc phát sóng về Hội chứng nhân An Xang Hồng và đạo Đức Chúa Trời Mẹ. Chương trình này cho biết đạo mới này đã dỗ dành những người tin Chúa với giáo lý định trước ngày giờ tận thế, làm cho người nghe theo chỉ chú trọng đến điều này mà thôi, qua việc này để các tín đồ dâng hiến nhiều tiền, đến nỗi có nhiều gia đình bất hòa, tan vỡ và phá sản.

Thế giới đã chứng kiến rất nhiều sự thất bại của những người tự xưng thánh thần, thiên tử, cứu thế chỉ là những nhân thần hư ảo. Các hoàng đế La mã, các vua chúa, các lãnh tụ một thời đầy quyền bính đóng vai thần linh để đáp ứng sự khao khát chờ mong của nhiều mến mộ. Chỉ riêng trong thế kỷ hai mươi có 22 người tự xưng mình là Chúa Jêsus, là Con Đức Chúa Trời cứu rỗi thế gian trong đó có An Xang Hồng [7]. Một người đóng vai thần linh có trở thành chúa tể nắm binh quyền cả thế giới đi nữa vẫn chỉ là trò lừa lừa bịp. Khi nhân thần này ngã xuống, mọi hình tượng, công trạng, sự sùng bái dần dần lộ diện bản chất thật dối trá chỉ mang lại cho người ta bất hạnh và đau khổ. An Xang Hồng, Jang Gil Ja, có xưng mình là gì đi nữa chỉ cho mọi người thấy sự phạm thượng giả danh đến đỉnh điểm vì đóng vai Đấng Tối Cao sáng tạo muôn loài vạn vật mà mọi người phải thờ phượng tôn vinh. Phận con người mỏng manh, giới hạn và cát bụi, tổ chức tôn giáo của con người có thể bất toàn và tiêu vong không thể nào đem đến cho ai cứu rỗi, sự sống vĩnh phúc được.[8]

Giáo chủ An Xang Hồng, bà Jang Gil Ja, và Tổng Hội trưởng Kim Joo Cheol

Thứ hai, An Xang Hồng là một người xuất thân từ hệ phái Sabát, vì vậy ông chủ trương dùng một số câu Kinh Thánh và giải luận theo ý riêng. Phải giữ các ngày Sabát, Lễ Vượt qua, Lễ Lều tạm, Lễ Ngũ tuần, Lễ Thổi kèn…của đạo Do Thái, cho rằng ngày Sabát của giao ước không được bỏ, là một dấu hiệu đời đời của Đức Chúa Trời. Còn Lễ Vượt qua là đường lối của sự sống của Đức Chúa Trời nhờ đó con người mới được cứu. Các tín đồ nữ phải trùm đầu, không sử dụng hình ảnh thập tự giá, không có ngày lễ kỷ niệm Chúa giáng sinh. [9] Hội Thánh Đức Chúa Trời chủ trương giáo lý tận thế và ấn định sai trật ngày giờ Chúa tái lâm vào năm 1988, rồi đến năm 2004, đã gây hoang mang và bất ổn cho xã hội Hàn Quốc.[10]

Các tín đồ nữ phải trùm đầu

Thứ ba, tà giáo Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ hiện nay hoạt động mạnh tại Việt Nam, bằng cách làm việc từ thiện, hoạt động xã hội, thành lập các công ty, đại lý kinh doanh làm cơ sở phát triển hợp pháp với chiêu bài tuyên truyền, dẫn dụ và kiếm tiền như đa cấp. Ngoài ra họ còn tổ chức chương trình văn hóa nghệ thuật, hòa nhạc giao hưởng “chữa bịnh”, vận dụng mạng lưới internet, facebook, sự tương tác giữa công nghệ, hình ảnh và âm thanh, phát hành nhiều sách vở và tài liệu. Cũng như các công ty kinh doanh đa cấp lừa đảo, tìm kiếm sự tín nhiệm của người ta bằng thủ thuật dùng hình ảnh quảng cáo, huân chương của nữ hoàng này, tuyên dương của tổng thống nọ, rồi đến nghị sĩ, thị trưởng, chủ tịch hội này tri ân, thống đốc bang kia cảm tạ vì những đóng góp của tà đạo này cho xã hội.

Jang Gil Ja và Nguyên Phó Chủ tịch Nước Việt Nam ! Hình thật hay giả?

Dần dần xã hội sẽ chấp nhận và khi đã tạo những ảnh hưởng lớn trong cộng đồng, tổ chức đội ngũ nhân sự được huấn luyện chu đáo năng động tận dụng mọi lúc mọi nơi để tuyên truyền giáo thuyết của họ và kêu gọi hình thức đầu tư dâng hiến cho tà đạo để tương lai hưởng lợi. Hoàn cảnh của xã hội Việt Nam là nơi dễ dàng cho tà giáo phát triển, đất nước đang mở cửa, đời sống nhiều người bất hạnh nghèo khổ, mệt mỏi chán nản cuộc sống, mất lòng tin vào con người nên hướng vào cõi tâm linh. Người ta chứng kiến bất công và cái ác xảy mỗi ngày, lâu nay được giáo dục trong môi trường thụ động tuân thủ, nay giới trẻ tìm cơ hội tự thân vận động bằng mọi giá vị lợi. Có các phương tiện như điện thoại, iPhone, laptop, iPad dễ dàng nắm bắt thông tin ngay, nhưng một người sẽ không dễ để có quyết định chọn lựa đúng. Nhà nghiên cứu tôn giáo GS. Nguyễn Quang Hưng đã trả lời phỏng vấn: “Người ta khẳng định hội này là tà đạo, dù giới nghiên cứu tôn giáo không thích dùng từ này lắm, nhưng đó là sự thật.”[11]

Tóm lại, những ngày gần đây giới truyền thông xã hội đã viết nhiều về hiện tượng này, chính quyền vào cuộc để ngăn chận mối nguy hại này. Về phía giáo hội chúng ta, Cơ Đốc giáo đã trải nghiệm việc đối kháng tà giáo từ thời các Sứ Đồ, đã hơn hai ngàn năm qua. Phương cách hữu hiệu nhất là việc tuyên xưng đức tin trên căn bản của nội dung Bài Tín Điều Các Sứ Đồ. Người tin Chúa cần nhận thức rằng, giáo lý chính giáo đã được ghi nhận không thể thêm bớt danh tánh, thay đổi bất cứ điều gì trái ngược với niềm tin Cơ Đốc xưa nay. Kinh Thánh khuyên dạy hàng giáo phẩm, chấp sự và tín hữu Tin Lành cẩn trọng cầu nguyện để khỏi bị mê hoặc, xa lánh các giáo sư giả, lên tiếng khuyên bảo họ và không dự phần vào công việc ác của họ:

Khi ấy, nếu có ai nói với các ngươi rằng: Kìa Đấng Christ ở đây hay là: Ở đó, thì đừng tin. Vì nhiều Christ giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn.”

“Hễ ai đi dông dài, chẳng bền lòng theo đạo Đấng Christ, thì người ấy không có Đức Chúa Trời. Còn ai bền lòng trong đạo ấy, thì người đó có Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con. Nếu ai đến cùng các ngươi mà không đem đạo ấy theo, thì chớ rước họ vào nhà, và đừng chào hỏi họ. Vì người nào chào hỏi họ, tức là dự vào công việc ác của họ.”

Nhưng hãy lánh những điều cãi lẽ dại dột, những gia phổ, những sự cạnh tranh nghị luận về luật pháp, vì mấy sự đó đều là vô ích và hư không. Sau khi mình đã khuyên bảo kẻ theo tà giáo một hai lần rồi, thì hãy lánh họ.”

“Hỡi kẻ rất yêu dấu, vì anh em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, e anh em cũng bị sự mê hoặc của những người ác ấy dẫn dụ, mất sự vững vàng của mình chăng.”

“Hãy tấn tới trong ân điển và trong sự thông biết Chúa và Cứu Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyền xin vinh hiển về nơi Ngài, từ rày đến đời đời! A-men.”[12]

Bài giảng Của Ms Billy Graham: Bí Quyết Thành Công Trong Công Tác Truyền Bá Phúc Âm

Bài giảng Của Ms Billy Graham: Bí Quyết Thành Công Trong Công Tác Truyền Bá Phúc Âm

Bí Quyết Thành Công Trong Công Tác 

Truyền Bá Phúc Âm (*)[1] 

Lời giới thiệu

Công tác truyền giáo thế giới Thế kỷ 21 được đánh dấu bằng sự kiện “Hội nghị Amsterdam năm 2000.” Tại hội nghị này, Mục sư Billy Graham, nhà truyền giáo nổi tiếng nhất thế kỷ 20 đã gửi đến con dân Chúa sứ điệp truyền giáo mạnh mẽ và sâu sắc như là lời tâm tình và khải tượng truyền giáo trao gửi lại cho thế hệ kế tục chúng ta hôm nay.

Để tưởng nhớ nhà truyền giáo trứ danh đã tận hiến cả cuộc đời cho công tác truyền bá Phúc âm, vừa về Nước Chúa vào 21.2.2018, chúng tôi xin gửi tới quí tôi con Chúa bài giảng được xức dầu này của ông.             

Hân hoan chào mừng quý vị trong Danh Chúa Giê-xu Cơ Đốc, Chúa chúng ta!

Tôi xin hoan nghênh qúy vị đã đến đây tham dự lễ khai mạc Hội nghị Amsterdam 2000 tối nay.

Chúng ta từ hơn 185 quốc gia, lãnh thổ, khu vực trên thế giới đã họp nhau tại Amsterdam này. Một số quí vị đã vượt qua chặng đường hàng ngàn dặm, chịu nhiều hy sinh để đến với hội nghị này. Chúng ta không phải chỉ đến từ những vùng đất khác nhau trên trái đất, nhưng cũng đến từ những nền văn hóa, dân tộc và hệ phái khác nhau nữa. Thật vậy, thiết tưởng chưa có một cuộc hội họp rộng lớn như thế này trong Hội Thánh của Chúa Giê-xu từ trước đến nay. Phần lớn qúy vị sẽ không có cơ hội nào khác để có thể từ phương trời này thông công với anh chị em trong Chúa từ khắp nơi trên trái đất như thế này. Ước mong mỗi người trong chúng ta sẽ cảm thấy vui thỏa suốt những ngày chúng ta cùng nhau học hỏi những gì Đức Chúa Trời đang làm trên thế giới. Nguyện Chúa dùng mối thông công này để khích lệ và giục giã mỗi lòng chúng ta.

Nhưng tại sao chúng ta lại ở đây, trong thành phố xinh đẹp này? Chúng ta đã dự tính, quyết định, ra đi và chịu nhiều phí tổn để đến Amsterdam 2000 nhằm mục đích gì? Hay nói một cách khác, tai sao Đức Chúa Trời họp nhau chúng ta tại đây? Ngài muốn thực hiện điều gì trên mỗi người chúng ta trong những ngày này? Tôi tin rằng chúng ta đã đến đây do ý muốn thiên thượng. Lời cầu nguyện của tôi và cũng là lời cầu nguyện khẩn thiết của qúy vị, đó là mục đích của Đức Chúa Trời sẽ được thực hiện trên mỗi đời sống chúng ta.

Tôi mong rằng quí vị đến đây chỉ với một mục đích chính: khám phá ra một phương cách thật hiệu qủa cho công tác mở mang Nước Trời trên đất. Đây là lý do chủ yếu để chúng ta tồn tại với tư cách là những người phục vụ Đấng Christ. Xin đừng để ý đến những khác nhau về bối cảnh, vì chúng ta được hiệp nhất trong tình yêu của Đấng Christ, trong sự cam kết truyền bá Phúc Âm cho đến cùng trái đất.

Nhưng làm thế nào để có thể đạt được điều ấy? Chúng ta nên tìm kiếm điều gì trong suốt những ngày tham dự hội nghị này? Chúng ta hãy quay lại và tìm kiếm lời của Đức Chúa Trời để khám phá ra những nguyên tắc mà chúng ta phải theo nhằm áp dụng trong thời đại mình.

Có lẽ không có chương Kinh Thánh nào lại dạy dỗ về chủ đề này nhiều hơn các chương mở đầu của sách Công vụ, nó ghi lại những ngày đầu tiên của Hội Thánh Đấng Christ. Những chương này cần được nghiên cứu cẩn thận dù ở đây tôi chỉ lướt qua thôi. Những nguyên tắc xoay quanh thời kỳ sôi động này dạy chúng ta phương cách mà Đức Thánh Linh sử dụng để truyền bá Phúc Âm trong nền văn hóa và thời đại của chúng ta.

Tôi suy nghĩ và rút ra từ các chương đầu của sách Công Vụ bốn mục đích mà tôi tin rằng quí vị nên cố gắng đạt được trong kỳ hội nghị này. Mặc dù tôi sẽ không tham dự hết các buổi nhóm của hội nghị này, nhưng tôi và quí vị hiệp một với nhau trong lời cầu nguyện. Vì thế xin cho phép tôi được nói như tôi đang hiện diện với quí vị, vì tâm linh tôi đang ở với quí vị.

Trước hết, hãy tái khẳng định sự cam kết của chúng ta đối với chân lý Phúc Âm .

Một vài nguời trong quí vị đến từ những nơi đang bị ảnh hưởng của những trào lưu tôn giáo hay các hệ tư tưởng chối bỏ những chân lý cốt lõi của Phúc Âm. Một số qúy vị đang phải đối diện với sự bành trướng của chủ nghĩa thế tục hay chủ nghĩa duy vật luôn tỏ thái độ lạnh nhạt, thờ ơ hay thậm chí thù địch đối với Phúc Âm nữa. Hoặc có thể quí vị đang sống giữa xã hội hậu hiện đại, họ phủ nhận tất cả dù đó là chân lý đi nữa.

Dù qúy vị đang sống trong hoàn cảnh thế nào đi nữa, có một điều hoàn toàn rõ ràng đối với Cơ Đốc nhân đầu tiên, đó là họ biết rõ Phúc Âm là gì và họ cũng sẵn sàng đánh đổi cuộc sống của mình cho những điều họ đã tin chắc là chân lý. Phi-e-rơ trong ngày lễ Ngũ tuần cũng đã cất tiếng lean rằng: “Vậy, cả nhà Y-sơ-ra-ên khá biết chắc rằng Đức Chúa Trời đã tôn Giê-xu này mà các ngươi đã đóng đinh trên thập tự giá, làm Chúa và Đấng Christ” (Công Vụ 2: 36). Sau đó ít lâu ông cũng đã đứng trước Hôi đồng công luận, tuyên bố cách mạnh mẽ rằng: “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta nhờ đó mà được cứu” (Công Vụ 4:12).

Trước tiên các môn đồ cũng đã ở trong mối hiểm nguy của sự hiểu lầm Phúc Âm. Bốn mươi ngày sau khi Đấng Christ phục sinh, họ nhóm lại với Chúa Giê-xu trên đỉnh núi Ô-li-ve, ngay trước khi Ngài thăng thiên về cùng Đức Chúa Trời. Họ đã nói rằng: “Lạy Chúa, có phải trong lúc này Chúa sẽ lập lại nước Y-sơ-ra-ên chăng?” (Công Vụ 1: 6). Mắt họ phải được mở ra để nhìn thấy trước vấn đề. Đây là thời điểm mà họ đang chờ đợi, thời điểm mà Đấng Mê-si-a sẽ bẻ gãy cái ách bạo ngược của người La Mã và đưa dân Y-sơ-ra-ên vùng lên. Nhưng điều thắc mắc đó đã bị lệch lạc. Quan điểm của họ về vương quốc của Đấng Christ chỉ là vấn đề chính trị và có tính chất trần thế này, bị giới hạn trong một lãnh vực và hoàn toàn mất đi những khía cạnh sâu xa hơn của thập tự giá và sự phục sinh.

Chúa lập tức sửa sai họ: “Kỳ hạn và ngày giờ mà Cha đã tự quyền định lấy, ấy là việc các ngươi chẳng nên biết” (Công Vụ 1: 7). Ánh mắt háo hức của họ có lẽ đã sụp xuống khi nghe những lời nói này. Nhưng một sự rung động mới đã lấp đầy trái tim họ, tấm lòng họ khi Chúa Giê-xu tuyên bố về ngày Chúa trở lại, “các ngươi sẽ làm chứng về ta tại thành Jê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công Vụ 1:8). Trong lời tuyên bố đó, Chúa Giê-xu đã bày tỏ trực tiếp cho Hội Thánh một mệnh lệnh mạnh mẽ và một chương trình hành động. Quả thật đó là một nhiệm vụ phi thường: Truyền bá Phúc Âm toàn cầu! Chúng ta ngày nay cũng phải đem Phúc Âm đến mọi nơi trên khắp trái đất.

Nhưng còn một điều chắc chắn nếu chúng ta muốn thấy công tác này hoàn thành, đó là chúng ta phải nắm chặt lấy bản chất của Phúc Âm, đó là “quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin” (Rô-ma 1:16)

Như vậy, Phúc Âm là gì? Hãy xem xét lại những lời mà Phi-e-rơ đã rao giảng trong ngày lễ Ngũ tuần, hay ở những bài giảng khác được ghi trong sách Công vụ. Hoặc xem những gì Phao-lô đã viết cho người Cô-rinh-tô: “Hỡi anh em, tôi nhắc lại cho anh em Tin lành mà tôi đã rao giảng và anh em đã nhận lấy, … Vả, trước hết tôi đã dạy dỗ anh em điều mà tôi đã nhận lãnh, ấy là Đấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh thánh” (I Côrinhtô 15: 1, 3 – 4).

Phúc Âm không tập trung vào những chương trình hay cách thức chúng ta thờ phượng, hoặc là những đặc thù của hệ phái chúng ta. Phúc Âm đặt trọng tâm vào Chúa Giê-xu Christ, Con độc sanh của Đức Chúa Trời, đã bị đóng đinh trên thập tự giá vì tội lỗi chúng ta và đã sống lại để cứu vớt chúng ta. Phúc Âm đảm bảo rằng đời sống chúng ta sẽ được thay đổi khi chúng ta nương dựa vào Đấng Christ trong sự ăn năn, đức tin và sự tái sinh bởi Đức Thánh Linh. Nhờ Phúc Âm chúng ta được tha thứ các tội lỗi mình và hoà thuận lại với Đức Chúa Trời, trở nên thành viên trong gia đình Ngài mãi mãi. Đó là Phúc Âm!

“Tin Lành của Chúa Jêsus Christ là tin tức, tin tức tốt lành: tin tức tốt đẹp và quan trọng nhất mà mọi người từng nghe”. Các nhà truyền giáo đầu tiên đã giới thiệu tất cả những điểm trên cách rõ ràng và đầy quyền năng. Đó cũng là thông điệp của các nhà truyền giáo ngày nay nữa, dù mang tính chất cá nhân hay trên bục giảng. Một khi Phúc Âm được công bố cách trung thành và đầy đủ, chúng ta sẽ khám phá được quyền năng trong đó. Chúng ta phải rao giảng toàn bộ Phúc Âm, không phải là lặp lại những lời nói sáo rỗng, rập khuôn hay những lời giáo huấn đạo đức. Điều mà Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta phải truyền giảng đó là chân lý Phúc Âm như Ngài đã bày tỏ cho chúng ta qua lời Ngài, là quyển Kinh thánh. Kinh thánh là nguồn của sứ điệp chúng ta và chúng ta phải rao giảng trung thực, không thêm không bớt sứ điệp Thánh kinh về sự chết và sự phục sinh của Đấng Christ vì chúng ta.

Đó là lý do tại sao trong các chiến dịch truyền giảng tôi luôn luôn giảng ít nhất là một bài giảng dựa vào Giăng 3:16 “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin con ấy, không bị hư mất mà được sự sống đời đời”.

Đúng vậy, trong những ngày này chúng ta hãy tái khẳng định chân lý Phúc Âm.

Thứ hai, hãy tái khẳng định sự ưu tiên cho công tác truyền bá Phúc Âm.

Nếu Phúc âm là chân lý thì việc rao truyền nó cho mọi người phải được đặt ở vị trí hàng đầu trong đời sống và chức vụ của chúng ta.

Một điều trở nên rất hiển nhiên, rõ ràng khi chúng ta nghiên cứu các chương đầu của sách Công Vụ (và cả phần còn lại của Tân ứơc nữa): Hội Thánh đầu tiên đã dành ưu tiên cho công tác truyền bá Phúc Âm. Khi phải đối mặt với sự bắt bớ họ đã cầu xin, “Này, xin Chúa hãy xem xét sự họ ngăm dọa và ban cho các đầy tớ Ngài rao giảng đạo Ngài một cách dạn dĩ” (Công Vụ 4: 29). Khi bị cấm rao giảng, Phi-e-rơ đã trả lời, “Chúng tôi không có thể chẳng nói về những điều mình đã thấy và nghe” (Công Vụ 4: 20). Một trong những lời cầu nguyện thường xuyên của tôi cho hội nghị này là xin Chúa cho Hội Thánh toàn cầu đặt ưu tiên cho công tác truyền bá Phúc âm. Đôi khi chúng ta quên mất điều đó. Hội Thánh thực hiện việc này chỉ trong một thế hệ rồi sau đó mất hẳn. Thế giới cần được truyền giảng trong mọi thế hệ.

Tất nhiên chinh phục những người bị hư mất cho Đấng Christ không phải bao gồm mọi chuyện mà Hội Thánh được kêu gọi phải làm. Chúng ta được kêu gọi môn đệ hóa như Chúa Giê-xu đã phán qua việc “dạy cho họ giữ hết cả những điều mà ta đã truyền cho các ngươi” (Mathiơ 28: 20). Chúng ta cũng được kêu gọi để thờ phượng và cầu nguyện, được kêu gọi để làm công tác từ thiện trong thế giới chúng ta. Chúng ta phải tham gia vào nhiều công tác giúp đỡ gia đình, giáo dục, xã hội. Tuy nhiên công tác truyền bá Phúc Âm phải được đặt ưu tiên hàng đầu. Nó không giải quyết được tất cả mọi nan đề, nhưng nó vẫn phải là việc ưu tiên của chúng ta. Nguyện Đức Chúa Trời sẽ dùng kỳ hội nghị này để tái khẳng định sự ưu tiên cho việc truyền bá Phúc Âm trong đời sống chúng ta và trong các Hội Thánh của chúng ta.

Vì lẽ gì mà việc truyền giảng Tin Lành phải là điều ưu tiên của chúng ta?  Nó không đơn thuần chỉ là một công tác được duy trì từ thế hệ này đến thế hệ khác, nhưng bởi vì sự hư mất và sự tuyệt vọng mà chúng ta đang nhìn thấy chung quanh mình. Chính vì thế giới của chúng ta đang ở trong sự kèm kẹp của Sa-tan, chúa tể của sự gian dối, lừa lọc. Chính vì chúng ta đang sống trong một hành tinh bị bóp méo và làm cho sai lạc bởi tội lỗi. Nhân loại đang ở trong tình trạng nổi loạn chống lại Đấng Tạo Hóa và không còn cách nào khác hơn là hòa thuận lại với Ngài. Qúy vị đã nhìn thấy những điều đó chung quanh mình. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà theo như Ê-phê-sô 2: 2 là “không có hy vọng và không có Đức Chúa Trời”.

Chúng ta có nhìn thấy tha nhân như cách Đức Chúa Trời nhìn thấy không? Việc yêu thương mà chúng ta có thể làm cho tha nhân là đem họ đến với Giê-xu Christ. Đấng duy nhất là “đường đi, chân lý và sự sống” (Giăng 14: 6).

Dù vậy, công tác làm chứng không phải là một việc dễ dàng. Truyền bá Phúc Âm thật sự thường diễn ra trong tình cảnh phải chịu nhiều hy sinh và đau khổ. Một số quí vị đến từ những nước rất khó khăn và có lẽ quí vị kinh nghiệm điều đó hơn tôi nhiều. Nhưng xin đừng bao giờ quên: Đấng Christ đã từ thiên đàng xuống nơi bần hàn nhất, Ngài sẵn sàng chịu hy sinh đến mức cùng cực nhất vì Ngài yêu chúng ta. Nguyện tình yêu ấy cũng chan chứa trong lòng chúng ta và khiến chúng ta ra đi chia sẻ cho người khác về Phúc Âm biến đổi cuộc đời của Đấng Christ. Mong rằng đây sẽ là điều chúng ta dành ưu tiên sau khi rời Amsterdam này.

Thứ ba, chúng ta hãy tái khẳng định sự nương cậy nơi sự cầu nguyện và quyền năng của Đức Thánh Linh.

Hội Thánh đầu tiên được sinh ra trong môi trường cầu nguyện. Chúng ta đọc thấy điều này trong những ngày các môn đồ ở trên phòng cao, “Hết thảy những người đó bền lòng đồng một ý mà cầu nguyện” (Công Vụ 1:14). Tiếp theo những ngày sau lễ Ngũ tuần, Kinh Thánh chép, “những người ấy bền lòng giữ lời dạy của các sứ đồ, sự thông công của anh em, lễ bẻ bánh và sự cầu nguyện, … Mỗi ngày Chúa lấy những kẻ được cứu thêm vào Hội Thánh” (Công Vụ 2:42,47). Khi đối mặt với chống đối, họ cầu nguyện. Kinh Thánh chép rằng: “Khi đã cầu nguyện, thì nơi nhóm lại rúng động; ai nấy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, giảng đạo Đức Chúa Trời cách dạn dĩ” (Công Vụ 4: 31).

Nguồn động lực trong công cuộc truyền bá Phúc âm là gì? Nó không xuất phát từ các chương trình hay các tổ chức, nó không phụ thuộc vào kỹ thuật tối tân.

Khi tôi chào thăm quí vị ở tại trung tâm RFI – Amsterdam, quí vị có thể nhìn thấy tôi và tôi có thể nhìn thấy quí vị nhờ kỹ thuật tuyệt vời của truyền hình và vệ tinh. Nhưng, sức mạnh trong công tác truyền giảng không phải nhờ vào kỹ thuật. Nó chỉ đến từ Đức Chúa Trời. Chỉ duy nhất Đức Thánh Linh mới có thể đập vỡ những tấm lòng bằng đá của con người, mở mắt chúng ta ra để nhìn thấy chân lý Phúc Âm. Lời cuối cùng Đức Chúa Giê-xu phán với các môn đồ của Ngài khi thăng thiên còn ghi khắc trong lòng và trí chúng ta:”Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi, thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép, và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến cùng trái đất” (Công Vụ 1: 8).

Có nhiều điều tôi không hiểu hết về sự cầu nguyện – cũng như có nhiều điều tôi không hiểu hết về công việc lạ lùng của Đức Thánh Linh. Nhưng tôi biết hai điều này liên quan mật thiết với nhau. Nhờ sự cầu nguyện chúng ta tuyên bố mình lệ thuộc vào Đức Chúa Trời, và nhờ sự cầu nguyện Đức Chúa Trời tuôn đổ Thánh Linh trên chúng ta và trên công tác của chúng ta. Những lúc gặp căng thẳng thì cầu nguyện là nền tảng cho những công việc vĩ đại của Đức Chúa Trời. Sự cầu thay xóa tan ưu sầu, làm bật lên những khúc ca thiên thượng. Tôi thường được hỏi rằng bí quyết để thành công trong việc rao giảng Phúc Âm là gì, và tôi trả lời rằng nó gồm có ba yếu tố: cầu nguyện… cầu nguyện… và cầu nguyện!

Giống như chúng ta nhờ sự chết và sự phục sinh của Đức Chúa Giê-xu Christ để được sự sống đời đời, thì mỗi ngày chúng ta cũng phải nhờ cậy quyền năng của Đức Thánh Linh đã ban xuống trong ngày lễ Ngũ tuần. Đức Chúa Trời muốn chúng ta kinh nghiệm sự đổ đầy Đức Thánh Linh thường xuyên mà hễ ai tin thì nhận được. Xin đừng nhầm lẫn: mặc dù các tín hữu có Đức Thánh Linh nhưng không phải tất cả đều kinh nghiệm sự đầy dẫy quyền năng của Ngài. Chỉ quyền năng của Ngài mới ban sức mạnh để làm cho chức vụ hiệu quả. Đầy dẫy Đức Thánh Linh có nghĩa là đầy dẫy quyền năng trong chức vụ. Không có Đức Thánh Linh thì không có quyền năng, không kết quả, không có sự sống, không có gì cả!

Tình yêu, sức mạnh, sự rao giảng Phúc Âm và sự năng động thuộc linh xuất phát từ đâu? Nó xuất phát chỉ từ một nguồn duy nhất: Đó sự hiện diện mạnh mẽ của Thánh Linh Đức Chúa Trời khi Ngài ngự trị và chiếm hữu đời sống chúng ta. Việc này sẽ xảy ra như thế nào? Nó xảy ra khi chúng ta quy phục Đức Chúa Giê-xu Christ, hằng ngày ăn năn về tội lỗi mình, tìm kiếm quyền năng Ngài để trở nên càng giống Christ trong sự thánh khiết và tình yêu. Có tội lỗi nào kín giấu trong đời sống quí vị ngăn trở sự hiệu qủa của chức vụ quí vị không?

Khi chúng ta rao giảng Phúc Âm, Đức Thánh Linh hành động và chúng ta lệ thuộc vào Ngài. Đó là lý do tại sao khi tôi rao giảng tôi luôn trích chính xác từng lời trong Kinh Thánh. Đối với tôi những lời đảm bảo chắc chắn nhất được tìm thấy trong Ê-sai: “Vả, như mưa và tuyết xuống từ trên trời, và không trở lại nữa, mà đượm nhuần đất đai, làm cho sanh ra và kết nụ … lời nói của Ta cũng vậy, đã ra từ miệng thì chẳng trở về luống nhưng, mà chắc sẽ làm trọn đều ta muốn, thuận lợi công việc ta đã sai khiến nó” (Ê-sai 55: 10 – 11). Phao-lô cũng đã nói: “Lời nói và sự giảng của tôi chẳng phải bằng bài diễn thuyết khéo léo của sự không ngoan, nhưng tại sự tỏ ra Thánh Linh và quyền phép, hầu cho anh em chớ lập đức tin mình trên sự khôn ngoan loài người, bèn là trên quyền phép Đức Chúa Trời” (I Cô-rinh-tô 2: 4 – 5).

Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi muốn thêm vào điều tôi tìm thấy trong khi tôi giảng, đó là có sự khác nhau giữa sự tự do và quyền năng. Thật là một cảm xúc tuyệt vời khi có sự tự do trong khi giảng. Nhưng đôi lúc tôi cảm nhận được quyền năng lớn lao khi tôi có ít sự tự do khi rao giảng. Đó là do Đức Chúa Trời hành động qua Thánh Linh Ngài dù tôi có cảm giác hay xúc động ra sao.

Cuối cùng, hãy tái khẳng định tận dụng mọi phương tiện Đức Chúa Trời ban cho để công bố Phúc Âm.

Hội Thánh đầu tiên đã không nhờ vào kỹ thuật tiến bộ, nhưng họ dùng mọi phương pháp, mọi phương tiện tùy theo hoàn cảnh của mình. Kinh Thánh ghi lại: “Ngày nào cũng vậy, tại trong đền thờ hoặc từng nhà, sứ đồ cứ dạy dỗ rao truyền mãi về Tin lành của Đức Chúa Giê-xu, tức là Đấng Christ” (Công Vụ 5: 42)

Một vài người mới đây nhắc lại với tôi rằng, khi chúng ta tổ chức một hội nghị như thế này mười bốn năm về trước, chúng ta không có máy fax, điện thoại, email hay Internet để hỗ trợ. Chúng ta hãy suy nghĩ về những thay đổi trong vòng mười bốn năm tới sẽ mang lại! Kỹ thuật công nghệ không phải là tất cả, nhưng nó là một món qùa Đức Chúa Trời ban cho chúng ta trong lúc này nhằm giúp chúng ta trong việc rao giảng Phúc Âm đến cùng trái đất. Đối với thời kỳ đầu tiên trong lịch sử nhân loại, chúng ta cũng có thể đi đến cùng trái đất vì Đấng Christ.

Xin đừng bao giờ quên rằng Sa-tan cũng sẽ dùng những phương tiện mới mẻ khiến con người làm nô lệ cho nó. Còn chúng ta đem sự tự do trong Đấng Christ cho mọi người, tại sao chúng ta không nỗ lực nhiều hơn nữa? Trong kỳ hội nghị này, chúng ta được tiếp cận với những phương tiện, công cụ mới mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta trong thời đại này, hãy sử dụng nó để tôn vinh Đức Chúa Trời.

Điều đó không có nghĩa là mỗi người chúng ta khi rời Amsterdam sẽ hoạch định việc sử dụng những tiến bộ kỹ thuật cho Hội Thánh mình. Có thể nó sẽ không thể thực hiện được ở nơi quí vị sinh sống. Nhưng Đức Chúa Trời có những công cụ khác mà Ngài muốn trang bị cho chúng ta. Đó có thể là sự hiểu biết rộng hơn về cách thức soạn một bài giảng, cách kêu gọi, cách chinh phục một làng cho Đấng Christ. Có thể đó là cách nắm bắt vấn đề để lời nói của quí vị đáp ứng được nhu cầu của người nghe, hay cách tổ chức công việc hiệu quả hơn, với kết quả to lớn hơn. Nhưng bây giờ hãy cầu xin Đức Chúa Trời trang bị cho chúng ta, để chúng ta sẽ là một công cụ sắc bén và hiệu quả trong cánh tay Ngài.

Lời kết luận

John Wesley, nhà truyền giáo lỗi lạc thế kỷ 18, người có công thành lập Hội Thánh Giám Lý, một lần đã nói, “Hãy cho tôi ba mươi người không yêu mến điều gì khác hơn ngoài yêu mến Đức Chúa Trời, không ghét gì khác hơn ngoài ghét tội lỗi, và chỉ tìm kiếm vinh quang Đức Chúa Trời mà thôi, thì tôi sẽ làm cho cả thế giới bùng cháy”.

Trong số quí vị chắc đã có nghe về vẻ đẹp của công viên quốc gia Yosemite tại California Hoa Kỳ. Tôi nhớ đến một cảnh tượng ngoạn mục gọi là “Thác lửa”, người ta thường đến ngắm nó mỗi đêm mùa hè. Một ngọn lửa vĩ đại được đốt cháy cao lên trên bề mặt thung lũng nơi mọi người tập hợp lại để xem quang cảnh kỳ vĩ này. Khi ngọn lửa rực cháy, phô bày sự đường bệ của nó, một giọng nói vang lên trong đêm thanh vắng: “Hãy tuôn lửa xuống”. Ngay lúc ấy, một cảnh tượng thật ngoạn mục, như một thác nước các mẩu than hồng đỏ rực tuôn trào đổ xuống nền đá. Đó là một cảnh tượng không thể quên cho những ai đã nhìn thấy.

Trong một thời đại mà thế giới đầy sự hoài nghi, ngờ vực, ghẻ lạnh, nơi mà ngọn lửa và sự nồng ấm của Đức Chúa Trời thiếu vắng giữa các con dân Ngài, lòng tôi luôn thổn thức “Xin hãy đổ lửa xuống!”

Mong rằng đây là điều mỗi người chúng ta nên cầu nguyện: Ôi Đức Chúa Trời! Xin hãy đổ lửa xuống; khuấy động tinh thần con, dạy dỗ tâm trí con; quăng đi gánh nặng của lòng con; trang bị cho con; đốt cháy đời sống con bằng ngọn lửa thánh khiết của Đức Thánh Linh. Chúa ơi! Xin hãy đổ lửa của Ngài xuống – bắt đầu từ chính mình con!

Năm Bài Học Từ Cuộc Đời Mục Sư Billy Graham

Năm Bài Học Từ Cuộc Đời Mục Sư Billy Graham

Shane Fruitt, 22 tháng 2 năm 2018

Vào ngày 21 tháng Hai vừa qua, thiên đàng có thêm một nhân vật vĩ đại thờ phượng Chúa Giê-xu và trần gian bị mất một con người thanh liêm vĩ đại, đó là William Franklin Graham, Jr, gọi thân mật là Billy. Ông là một mục sư người Mỹ, 99 tuổi, cuộc đời của ông như một gương mẫu chiếu sáng cho tất cả chúng ta. Tôi đã được đặc ân dự buổi truyền giảng lớn do ông giảng tại Vận động trường Texas năm 2002. Sân vận động đầy kín người bởi sự rao giảng đầy năng quyền Thánh Linh, Billy Graham ở tuổi 83, đã trình bày Phúc Âm một cách rõ ràng, mạnh mẽ, và sau đó hàng trăm, hàng ngàn người đã xưng tội và tin nhận Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của mình.

Là một thanh niên trẻ tuổi, tôi đã bị bắt phục bởi cách giảng dạy của ông và hơn thế nữa bởi Cứu Chúa mà ông đã rao ra. Thật thích thú khi đứng nhìn người đàn ông này từ xa trong suốt 16 năm qua. Dù tôi chưa bao giờ nói chuyện với ông nhưng ông đã truyền đạt cho tôi về sự giảng dạy, về đời sống thanh liêm và cách dẫn đưa nhiều người đến với Chúa. Thật ra, tôi tin rằng vị mục sư vĩ đại nầy dạy dỗ cho toàn thế giới cũng như dạy chúng ta rất nhiều điều.

Billy Graham mất đi nhưng ông để lại cho chúng ta 5 bài học sau:

1. Sống một đời sống có mục tiêu

Cho dù người ta có tin Chúa Giê-xu mà Billy Graham rao giảng hay không, mọi người đều tin rằng ông đã đặt đức tin vững chắc nơi Ngài. Ông chỉ nhắm mục tiêu là: rao giảng tình yêu của Chúa cho thế giới đang hết sức cần đến nó. Ông đã nói: “Đức Chúa Trời chứng minh Tình yêu của Ngài nơi Thập tự giá. Khi Chúa Giê-xu bị treo lên, huyết đổ ra, và chịu chết. Đó là lúc Đức Chúa Trời nói: “Ngài yêu bạn”. Ông tập trung vào những gì quan trọng nhất, và không để những điều thứ yếu chi phối. Rất nhiều lần chúng ta dễ bị chi phối bởi những điều không quan trọng trong hàng trăm năm qua, thành thật mà nói, biết bao lần chúng ta bị những việc không đâu chi phối chúng ta. Nếu kẻ thù chúng ta không khiến chúng ta phạm tội được,thì nó sẽ xúi giục chúng ta mất thì giờ vào những việc bị coi là “dại dột”. Chúng ta ở trên đất nầy nên tập trung vào hai việc đó là: nhận biết Đức Chúa Trời và giúp người khác nhận biết Ngài.

2. Đứng vững vàng

Trong nhiều năm qua, Billy Graham đã giảng cho hàng nghìn người, ông đã từng đứng dưới những hàng băng rôn với dòng chữ “Ta là đường đi, chân lý và sự sống”. Có nhiều áp lực văn hóa lẫn chính trị đã muốn sửa đổi chân lý nầy, họ muốn nói rằng có nhiều con đường dẫn đến Đức Chúa Trời. Nhưng Billy Graham không bao giờ quỳ xuống hay bị khuất phục trước những áp lực này. Ông vẫn đứng vững vàng, mạnh mẽ rao giảng Chúa Giê-xu là con đường duy nhất. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta phải mạnh mẽ tin quyết vào chân lý này.

3. Thực hành những gì mình rao giảng

Cuộc đời Billy Graham như là một biểu tượng của sự liêm chính. Ông thường nói: “Nếu điều ác không có vẻ hấp dẫn, thì sẽ không có chuyện bị cám dỗ”.  Vì thế, không có gì khó hiểu khi ông luôn tìm cách bảo vệ sự an toàn và uy tín của mình.” Có nhiều câu chuyện lạ như việc ông yêu cầu dẹp bỏ Ti-vi khỏi phòng khách sạn nơi ông ở. Ông cho người đi vào phòng khách sạn kiểm soát trước khi ông bước vào đó. Vì thế, hơn sáu mươi năm trong chức vụ, ông không hề bị liên lụy đến một vụ tai tiếng nào. Cả hai nhóm bảo thủ và tự do đều công nhận rằng cuộc đời của ông luôn sống phù hợp với sứ điệp ông rao giảng. Ông đã dạy rằng sự kêu gọi Chúa dành cho chúng ta vô cùng quan trọng và chúng ta phải trả giá đắt nếu chúng ta phạm tội. Không gì có thể cản trở chức vụ chúng ta hơn là sự giả hình.

4. Đức Chúa Trời có thể làm những việc phi thường qua những con người bình thường.

Thật dễ cho chúng ta hình dung một Billy Graham như nhân vật vĩ đại, lời nói của ông thật tuyệt vời, một người khổng lồ thuộc linh, một siêu Cơ Đốc nhân… Tuy nhiên, con gái của ông là cô Ann Graham Lotz đã mô tả ông một cách khác: “Khi tôi suy nghĩ về ba tôi, tôi không nghĩ ông là một người của công chúng, từ lòng tôi nghĩ ông là một nông dân, ông yêu chó và mèo. Ông theo dõi thời tiết cũng giống như những biến cố trong thế giới. Ông mặc quần jean, áo khoát nhẹ nhàng và đội mũ thể thao. Ông thích uống cà-phê ấm, trà đá lạnh, một muỗng kem, và một mẫu bánh mì Mc Donald.” Đức Chúa Trời không tìm kiếm siêu sao. Ngài đã có siêu sao rồi, đó là Chúa Giê-xu. Ngài đang tìm kiếm những con người tầm thường theo chân siêu sao là Chúa Giê-xu với một tấm lòng vững vàng, không rúng động.

5. Không ai là hoàn hảo

Khi bạn tra xem tự điển, bạn tìm từ “Cơ Đốc nhân” là gì, chắc là bạn mong đó là hình ảnh Chúa Giê-xu và theo sau đó là hình ảnh Billy Graham. Tuy nhiên, dù Billy Graham là người tin kính nhưng ông vẫn không phải là người hoàn hảo. Tiến sĩ Graham thường chia sẻ là điều hối tiếc lớn nhất của ông là ông đã không dành thời gian đủ cho các con ông. Ông ước tính “có lẽ ông đã bỏ mất 60% thời gian đáng lẽ ông phải dành để chăm sóc con cái mình tăng trưởng” bởi vì những chiến dịch truyền giảng và chức vụ đã kéo ông xa con cái có khi đến hàng tuần, hàng tháng…

Thật là một sự nhắc nhở quí báu là Chúa Giê-xu mà ông rao giảng đó cũng là Cứu Chúa mà ông rất cần. Đó là một sự khích lệ cho hết thảy chúng ta. Không ai là hoàn hảo cả, và mọi người đều cần đến Ngài.

Điều làm cho Billy Graham trở thành một con người vĩ đại là đây: Vâng, tôi định nói ông “đang sống” chứ không phải “đã sống”! Bài học lớn nhất mà ông dạy chúng ta là ông không chết hôm nay, nhưng ông thực sư đang sống ở giữa chúng ta. Ông sống mãi không phải vì ông là một con người vĩ đại nhưng vì ông là một người đã thờ phượng một Cứu Chúa vĩ đại hơn. Ông đã sống một cuộc đời liêm chính để dẫn đưa mọi người đến với Chúa Giê-xu, và hiện nay ông đang thật sự đứng với Đấng mà cả cuộc đời ông tìm cách đưa họ đến với Ngài.

“Hỡi đầy tớ ngay lành, trung tín, được lắm! Hãy đến hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi.”

Mục Sư Billy Graham Với Việt Nam

Mục Sư Billy Graham Với Việt Nam

Đêm 21/02/2018 (theo giờ Việt Nam), các cơ quan thông tấn quốc tế gần như đồng loạt loan tin Mục sư Tiến sĩ Billy Graham đã qua đời ở tuổi 99 tại Montreat, North Carolina (Hoa Kỳ) với những dòng tiêu đề rất ấn tượng. Trên mạng xã hội cũng đầy những dòng trạng thái bày tỏ lòng ngưỡng mộ, cảm kích, tiếc thương và hy vọng đoàn tụ với ông nơi thiên đàng.

Mục sư Billy Graham…

Mục sư William Franklin Graham, Jr. (được biết đến nhiều hơn với tên Billy Graham) sinh ngày 7 tháng 11 năm 1918 tại Charlotte, North Carolina (Hoa Kỳ). Sinh thời, ông được biết đến như là nhà truyền giảng Tin Lành vĩ đại nhất thế giới trong thế kỷ 20. Thậm chí, có người còn ví von rằng Mục sư Billy Graham là “nhà truyền giảng Tin Lành vĩ đại nhất kể từ thời Sứ đồ Phao-lô”.[1]

Trong suốt 60 năm chức vụ, ước tính ông đã giảng Tin Lành trực tiếp cho khoảng 215 triệu người tại 185 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Sứ điệp truyền giảng Tin Lành của ông đã vươn tới hàng trăm triệu người khác qua các phương tiện truyền thanh, truyền hình và internet. Ông còn được biết đến với tư cách là cố vấn thuộc linh cho hơn 10 đời tổng thống Hoa Kỳ.[2]

Ngoài ra, ông thường xuyên xuất hiện trong danh sách những người “được ngưỡng mộ nhất” (most admired) từ năm 1950 đến năm 1990.[3]

…với Việt Nam

Ngoài việc được biết đến như là một nhân vật có tầm ảnh hưởng cả thế giới, đặc biệt là cộng đồng Tin Lành, Mục sư Billy Graham cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam.

Từ ngày 26/10/1966 đến ngày 04/11/1966 tại Tây Bá Linh (Berlin) – Đức quốc đã diễn ra sự kiện quan trọng, đó là Đại Hội Thế Giới Truyền Giáo Tin Lành (World Congress on Evangelism). Mục sư Billy Graham tham dự với tư cách cố vấn kiêm diễn giả chính của Đại hội.[4] Lúc bấy giờ, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cũng đã cử phái đoàn tham dự Đại hội nầy.[5]

Khoảng một tháng sau, vào dịp Giáng sinh năm 1966, Mục sư Billy Graham đã có chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên trong bối cảnh đất nước còn đang ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Với sứ mạng của một nhà truyền giảng Tin Lành, ông dành thì giờ viếng thăm và tổ chức các chương trình truyền giảng Tin Lành trong suốt thời gian lưu lại Việt Nam, khi thì tại vùng cao nguyên (An Khê – Gia Lai), lúc thì tại miền duyên hải (Đà Nẵng)…[6]

Hai năm sau, cũng vào dịp Giáng sinh năm 1968, ông trở lại Việt Nam trong chuyến đi 5 ngày để tiếp tục thi hành sứ vụ của một sứ giả của Đức Chúa Trời. Trong sứ điệp của mình, ông luôn bày tỏ niềm hy vọng về tương lai hòa bình cho đất nước Việt Nam.[7]

Cuộc viếng thăm Việt Nam của Mục sư Billy Graham vào cuối thập niên 1960, khi cuộc chiến tại Việt Nam ngày càng trở nên khốc liệt, đã phần nào làm vơi đi nỗi đau thương của chiến tranh, mang đến sứ điệp hòa bình và Tin Lành cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

Tiếp nối chức vụ của ông, nửa thế kỷ sau, người con trai của ông là Mục sư William Franklin Graham đã có cuộc truyền giảng Tin Lành tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm 500 năm Cải Chánh Giáo Hội vào các ngày 08-09/12/2017.[8]

Những ngày cuối đời, ông đã từng nói: “Tôi biết rằng chẳng bao lâu nữa cuộc đời tôi sẽ kết thúc, tôi cảm tạ Chúa vì điều đó, và vì tất cả những gì Ngài đã ban cho tôi trong cuộc đời này, nhưng tôi mong đợi thiên đàng.” [9]

Giờ đây, điều mà Mục sư Billy Graham mong đợi đã thành hiện thực. Ông đã yên nghỉ trong nước Chúa sau khi “đánh trận tốt lành, đã xong sự chạy, và đã giữ được đức tin.”[10] Có thể nói, Mục sư Billy Graham đã để lại một di sản đức tin đồ sộ, đặc biệt là công cuộc truyền bá Tin Lành khắp thế giới như một lời nhận xét về ông: “Mục sư Billy Graham – một con người vĩ đại của Đức Chúa Trời đã nằm xuống, nhưng có hàng triệu người đã “đứng lên” khi “nghe” (sứ điệp của) ông.”[11]

Là thành viên của đại gia đình Tin Lành toàn thế giới, chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa vì chính Ngài đã tạo nên một Billy Graham thật vĩ đại. Là người Việt Nam, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với ông về tấm lòng yêu thương mà ông đã dành cho đất nước Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn vô cùng khó khăn. Cầu xin Đức Chúa Trời tiếp tục dấy lên những thế hệ nối tiếp chức vụ của ông trong công cuộc truyền bá Tin Lành khắp thế giới.

 

Mục sư Billy Graham trong chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu vào năm 1966. Từ trái qua: Mục sư Đoàn Văn Miêng – Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (giai đoạn 1960-1976), Mục sư Billy Graham và Mục sư Giáo sĩ Thomas Grady Mangham Jr – một trong những giáo sĩ Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp (C&MA) tại Việt nam

 


Mục sư Billy Graham trong một chương trình truyền giảng tại Việt Nam năm 1966


Mục sư Billy Graham (chụp năm 1966)


Mục sư Billy Graham giảng tại Tân Sơn Nhất trong một chương trình thờ phượng vào dịp lễ Giáng Sinh năm 1968

Nhìn Lại và Hướng Tới

Nhìn Lại và Hướng Tới

 

NHÌN LẠI & NHỚ LẠI QUÁ KHỨ

Hãy nhớ lại suốt chặng đường trong hoang mạc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã dẫn anh em đi trong bốn mươi năm nay.” (c.2) (TTHĐ)

Tại sao Kinh thánh dạy chúng ta phải nhớ lại? Có hai thái độ đối vối qua khứ mà Kinh Thánh dạy chúng ta, đó là quên và nhớ. Chúng ta cần phải nhờ ơn Chúa quên đi quá khứ buồn đau, thất bại (Ê-sai 43:18) ; ngược lại, chúng ta cũng phải nhớ những phước hạnh, ơn lành Chúa ban cho chúng ta để cảm tạ, biết ơn Chúa.

  • Để biết ơn Chúa (c.4-5)

“Trong bốn mươi năm nầy áo xống ngươi không hư mòn, chân ngươi chẳng phù lên. Vậy, khá nhận biết trong lòng rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sửa phạt ngươi như một người sửa phạt con mình vậy.”

Điều đáng buồn là dân Y-sơ-ra-ên vẫn hay quên ơn Chúa. Trong cả Kinh Thánh có nhắc đến động từ “quên” 128 lần; riêng Cựu ước là 110 lần. Trong sách Phục truyền có 15 lần, riêng đoạn 8 mà chúng ta học đây nhắc đến 3 lần “quên Đức Giê-hô-va.” (c.11,14,19). Chúng ta thường hay quên, nhất là những người lớn tuổi. Quí vị có nhớ năm ngoái giờ nầy quí vị làm gì không nếu không ngồi lại và ráng nhớ. Môi-se nhắc dân Y-sơ-ra-ên nhớ lại 40 năm đi trong đồng vắng để họ nhớ Ngài đã chăm sóc bảo vệ họ. Một hành trình dài 40 năm trong tình trạng thời tiết khắc nghiệt của sa mạc mà “áo xống không hư mòn, chân ngươi chẳng phù lên” (c.4) thì quả là một phép lạ! Họ nhớ lại 40 năm để thấy Chúa yêu thương, chăm sóc họ mặc dù Ngài cũng đã quở trách, sửa phạt họ một cách nghiêm trang “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sửa phạt ngươi như một người sửa phạt con mình vậy.” (c.5).

Hãy dành thì giờ trong những ngày cuối năm, đầu năm để đếm các ngày đã qua. “Đếm các ngày” là nhớ lại, đếm lại những ơn phước Chúa ban cho mình để biết ơn Chúa sâu xa “Hỡi linh hồn ta, hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va, Chớ quên các ân huệ của Ngài .” (Thi thiên 103:2).

  • Để ăn năn, sửa lại đường lối mình (c.2b)

“Hãy nhớ trọn con đường nơi đồng vắng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi đi trong bốn mươi năm nầy, để hạ ngươi xuống và thử ngươi, đặng biết điều có ở trong lòng ngươi, hoặc ngươi có gìn giữ những điều răn của Ngài hay chăng.”

Nhìn lại, nhớ lại cũng để ăn năn, sửa lại đường lối sai trật của mình là việc làm khôn ngoan. Trong hành trình 40 năm, dân Y-sơ-ra-ên phải đối diện với nhiều thách thức, khó khăn trong cuộc sống khiến họ lắm khi mất đức tin, lằm bằm oán trách và bị Chúa sửa phạt. Chúa đã hạ họ xuống, thử thách họ, khiến họ đói rồi ban ma-na từ trời cho họ ăn để nhắc họ nhớ rằng “người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà thôi nhưng nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời”. Thật vậy, Chúa đã nuôi họ bằng bánh ma-na từ trời trong 40 năm nhưng rồi họ lằm lằm, than chán ngán ma-na, và đòi ăn thịt  và Chúa chìu ý họ ban thịt chim cút cho họ ăn đến nỗi “thịt tràn ra lỗ mũi” và rồi bị Chúa hình phạt (Dân 11:20). Đó là bài học đáng giá cho dân Chúa ngày xưa cũng như ngày nay. Do thiếu đức tin, chúng ta thường quá lo lắng về vật chất, tìm kiếm ma-na thuộc thể, lo phải ăn gì, uống gì, mặc gì mà xao lãng việc tìm kiếm Chúa, tìm kiếm ma-na thuộc linh là Lời Chúa. Coi chừng chúng ta bị mắc lời rủa sả như Chúa phán trong trong A-ghê 1:6 “Các ngươi gieo nhiều mà gặt ít, ăn mà không no, uống mà không đủ, mặc mà không ấm; và kẻ nào làm thuê đựng tiền công mình trong túi lủng” vì chúng ta không quan tâm đến Nhà Chúa, công việc Chúa mà ai nấy “lo xây nhà mình”.

“Hãy xem xét đường lối mình” và ăn năn, sửa lại đường lối mình. Chúa phán với Hội thánh Ê-phê-sô: “Vậy hãy nhớ lại ngươi đã sa sút từ đâu, hãy ăn năn và làm lại những công việc ban đầu của mình.” (Khải 2:5a).

HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI

  • Hướng tới tương lai với hi vọng

Nhà văn kiêm thần học gia nổi tiếng người Anh là C.S.Lewis có nói một câu đầy ý nghĩa “Có nhiều điều tốt bội phần hơn ở phía trước so với những gì bỏ lại ở phía sau.” (There are far, far better things ahead than any we leave behind). Đó là lời khích lệ đáng nhớ cho chúng ta khi đối diện với tương lai trước mặt.

Sau khi nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên nhìn lại, nhớ lại quá khứ để biết ơn Chúa và sửa lại, ăn năn về những sai trật, tội lỗi của họ, Môi-se hướng dân Y-sơ-ra-ên về tương lại trước mặt là Đất hứa. Ông đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, đầy hy vọng đang chờ đợi họ. “vì Giê-hô-va Đức Trời ngươi sẽ khiến ngươi vào xứ tốt tươi, có nhiều khe, suối, nước sâu phun lên trong trũng và trên núi; xứ có lúa mì, lúa mạch, dây nho, cây vả, cây lựu; dầu ô-li-ve và mật…” (c.7-9). Đó là vùng đất tốt tươi, có nhiều khe suối, nước tuôn chảy trên đồi, có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây ô-liu, mật ong… nói chung là không thiếu thứ gì và họ sẽ được ăn no nê. Chúa muốn con dân Chúa nhìn tương lai với cặp mắt đức tin và hy vọng nơi Chúa. Niềm hy vọng của họ được đặt trên lời Chúa hứa. “Hãy cẩn thận làm theo hết thảy điều răn mà ta truyền cho các ngươi ngày nay, để các ngươi được sống, được gia thêm, và được vào nhận lấy xứ mà Đức Giê-hô-va đã thề cùng tổ phụ các ngươi, để ban cho các ngươi.” (c.1)

Chúng ta hôm nay cũng vậy, hãy hướng về tương lai năm mới mà bước đi với niềm tin và hy vọng nơi Chúa. Hành trình của Cơ Đốc nhân là hành trình tiến về Đất hứa, là quê hương ở trên trời, là những lời Chúa hứa cho chúng ta.

Chúa cũng ban cho chúng ta vùng Đất hứa thuộc linh là những phước hạnh trong Đấng Christ “đủ mọi thứ phước thiêng liêng ở các nơi trên trời.” (Êph 1:3).

Chúng ta không biết điều gì xảy ra trong tương lai, nhưng chúng ta tin rằng Chúa đang đồng hành với chúng ta, Ngài nắm giữ tương lai của chúng ta. Hãy năm chắc lấy lời Chúa hứa mà bước đi “Đức Giê-hô-va sẽ cứ dắt đưa ngươi; làm cho ngươi no lòng giữa nơi khô hạn lớn; làm cho cứng mạnh các xương ngươi, ngươi sẽ như vườn năng tưới, như nước chẳng hề khô vậy.”

(Ê-sai 58:11)

  • Hãy kính sợ Chúa (c.6)

Bí quyết để đời sống chúng ta được phước là hết lòng kính sợ Chúa. Vì thế, Môi-se dạy dân Y-sơ-ra-ên phải kính sợ Chúa “Hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, gìn giữ những điều răn của Ngài, đi theo các đường lối Ngài.”

Kính sợ Chúa không phải sợ Chúa phạt rồi hết lòng kính yêu Chúa, mà là để Ngài giữ thẩm quyền tối cao, là trung tâm điểm của đời sống mình và vâng phục ý muốn Ngài.  Kính sợ Chúa là bước đi theo đường lối Chúa “Phước cho người nào kính sợ Đức Giê-hô-va, đi trong đường lối Ngài.” (Thi 128:1).

  • Yêu mến Lời Chúa và cẩn thận làm theo (c.3b, c1)

Kính sợ Chúa luôn đi đôi với việc nuôi mình bằng Lời Chúa mỗi ngày “để khiến ngươi biết rằng loài người sống chẳng phải nhờ bánh mà thôi, nhưng loài người sống nhờ mọi lời bởi miệng Đức Giê-hô-va mà ra.” Đây là câu Kinh Thánh quan trọng nói lên sự cần thiết của Lời Chúa cho đời sống con dân Chúa và được chính Chúa Giê-xu nhắc lại trong Ma-thi-ơ 4:4.

Vâng giữ lời Chúa cũng có nghĩa là thực hành lời Chúa, áp dụng lời Chúa vào đời sống mỗi ngày  “Hãy cẩn thận làm theo hết thảy điều răn mà ta truyền cho các ngươi ngày nay.” Giô-suê trước khi dẫn dân Y-sơ-ra-ên vào Đất hứa, ông cũng long trọng nhắc lại mạng lịnh này “Quyển sách luật pháp nầy chớ xa miệng ngươi, hãy suy gẫm ngày và đêm, hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong; vì như vậy ngươi mới được may mắn trong con đường mình, và mới được phước.” (Giô-suê 1:8).

Hãy hướng về tương lại của năm mới với hy vọng, hết lòng kính sợ Chúa và yêu mến, vâng giữ Lời Chúa như lời Chúa dạy, chắc chắn chúng ta sẽ được phước dư dật như Chúa đã hứa.

Hãy nhìn lại quá khứ với thái độ đánh giá nghiêm túc và hướng tới tương lai với cặp mắt đầy đức tin và hy vọng là việc làm cần thiết và hữu ích. Chúng ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng điều chúng ta có thể có thể thay đổi là hiện tại và tương lai. Hãy nhìn lại quá khứ, nhìn lại chính mình để không quên, mà biết ơn Chúa; để thấy những những yếu đuối, tôi lỗi, sai lầm của mình mà ăn năn và sửa lại. Hãy hướng tới năm mới với hi vọng, với lòng kính sợ Chúa và cẩn thận làm theo lời Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ ban phước cho chúng ta như lời Ngài hứa: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi săn sóc, mắt Ngài hằng đoái xem nó từ đầu năm đến cuối năm” ( Phục truyền 11:12). A-men!

Chúa Giê-Xu – Vị Thầy Vĩ Đại

Chúa Giê-Xu – Vị Thầy Vĩ Đại

CHÚA GIÊ-XU – VỊ THẦY VĨ ĐẠI[1]

Người xưa có nói “nhân phi sinh tri thùy năng vô sư” (Người ta không ai sinh ra đã biết thì ai mà không cần có thầy).  Thật vậy, người ta sinh ra trước hết là mang ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục và sau đó là mang ơn những người thầy của mình. Người Việt Nam chúng ta vốn có truyền thống tôn sư trọng đạo nên hình ảnh nhà giáo, người thầy được yêu mến, ca ngợi.  Trong những ngày qua, tôi cùng các bạn học cùng lớp Việt Hán Đại học Sư phạm Sài Gòn tốt nghiệp năm 1972 đã  xúc động khi nghe tin Giáo sư Lê Hữu Mục vừa qua đời tại Ca-na-đa và gửi lời chia buồn cùng bày tỏ lòng biết ơn thầy sâu sắc. Ông là người thầy khả kính đã dạy chúng tôi học chữ Nôm và tập đọc nguyên tác Truyện kiều của Nguyễn Du. Ký ức về những ngày đi học bổng trở về khiến tôi nhớ đến hình ảnh các vị thầy khả kính khác như học giả Giản Chi, Nguyễn Duy Cần, Giáo sư Trương Văn Chình, Phạm Văn Diêu, Nguyễn Văn Trung, Lưu Khôn, cô Khưu Thị Huệ,  Linh mục Thanh Lãng… đã dạy cho tôi chữ Hán, văn chương Việt Hán và triết học Đông Tây… Đặc biệt sau năm 1975, tôi nhớ đến hình ảnh cố Mục sư – Giáo sư Phạm Xuân Tín, vị thầy đầu tiên đã dạy tôi và nhà tôi về Thần học, Thánh Kinh và là người đã khích lệ chúng tôi vâng theo tiếng gọi đi vào chức vụ phục vụ Chúa. Nhân Ngày Nhà giáo, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của một  học trò đối với các vị thầy quá cố của mình.

Tôi vốn cũng là giáo viên cấp 3 có 20 năm phục vụ trong ngành giáo dục trước khi trở thành mục sư. Tôi cảm thấy vui vì mình cũng đã góp phần phục vụ xã hội, dạy dỗ thế hệ trẻ.

Nói đến vị thầy vĩ đại trong văn hóa Đông phương, chúng ta thường nghĩ đến Khổng Tử được người đời tôn là “Vạn thế sư biểu”.  Ông có đến ba nghìn học học trò và trở thành vị thầy lý tưởng, cũng là người sáng lập ra Nho giáo.  Tuy nhiên,  hôm nay chúng tôi muốn giới thiệu với quí vị, đặc biệt là các nhà giáo, một vị Thầy rất đặc biệt, là vị Thầy của các vị thầy, vị Thầy không phải của một nền văn hóa, một dân tộc mà là vị thầy của mọi nền văn hóa, của mọi dân tộc, vị thầy thiên thượng được Kinh Thánh  gọi “Giáo sư đến từ Đức Chúa Trời”, đó là Chúa Giê-xu.

CHÚA GIÊ-XU LÀ VỊ THẦY VĨ ĐẠI

  • Giáo sư đến từ Đức Chúa Trời

Chúa Giê-xu khác biệt với tất các các vị thầy ở trần gian này là vì Ngài đến từ trời (thiên đàng), được gọi là Giáo sư từ trời. Trong Phúc âm Giăng chương 3 có ghi lại một câu chuyện thú vị về cuộc  gặp gỡ giữa Chúa Giê-xu với một vị giáo sư Do Thái tên là Ni-cô-đem.  Ông đã nghe về Chúa Giê-xu và các phép lạ của Chúa và trở thành môn đồ kín giấu của Ngài (vì sợ người Do Thái).  Một đêm nọ, ông tìm đến với Chúa Giê-xu và trò chuyên với Ngài. Giáo sư Ni-cô-đem đã thưa với Chúa Giê-xu rằng “Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được.” (Giăng 3:2b). Có lẽ ông đã từng nghe Ngài giảng dạy, và thấy những phép lạ kỳ diệu mà Ngài đã làm và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, khâm phục gọi Ngài là “Giáo sư từ trời” dù ông không dám công khai tuyên bố mình là môn đệ của Ngài.

Thật vậy, Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời trở nên con người, đến trần gian cách đây hơn 2000 năm để dạy cho nhân loại về chân lý cứu rỗi và Ngài thật là “Giáo sư từ trời”. Đến năm 30 tuổi, Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ và Ngài tuyển chọn 12 môn đệ thân cận gọi là 12 sứ đồ; sau đó tăng lên 120 môn  đệ và khi Chúa về trời tại núi Ô-li-ve thì có 500 môn đệ chứng kiến.

  • Ngài giảng dạy đầy quyền năng, biến đổi nhiều cuộc đời

Kinh Thánh cho biết “Chúa Giê-xu đi khắp các thành, các làng, dạy dỗ trong các Nhà hội và giảng Tin lành về Nước Đức Chúa Trời và chữa lành mọi thứ bệnh tật.” (Mat. 9:35) Hàng nghìn người đã đi theo Ngài để nghe Ngài dạy về Phúc âm, Nước trời. Ngài dạy đầy thẩm quyền của một giáo sư từ trời chứ không  như các thầy Thông giáo (chuyên gia về kinh luật) của người Do Thái.

  • Ngài làm nhiều phép lạ kỳ diệu

Trong khi đi đây đó giảng dạy, Ngài cũng dùng quyền năng xua đuổi tà ma, chữa lành người bị bệnh tật, khiến kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, kẻ mù được sáng mắt, kẻ chết được sống lại.  Ngài cũng làm những phép lạ kỳ diệu như hóa bánh cho hơn 5.000 người rồi sau đó cho 4.000 người ăn. Thật đúng như giáo sư Ni-cô-đem đã nói “vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được.”. Ngài không chỉ vị thầy vĩ đại mà con là vị lương y đại tài nữa.

  • Tấm gương mẫu toàn hảo: thánh khiết, yêu thương, công chính

Chúa Giê-xu là vị thầy toàn hảo tuyệt đối để chúng ta noi theo.  Ngài là Đấng thánh khiết, yêu thương, công chính.  Kinh Thánh mô tả “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chỉ dối trá. Ngài bị rủa mà chẳng rủa lại, chịu nạn mà không hề ngăm dọa, nhưng cứ phó mình cho Đấng xử đoán công bình…” (1 Phi 2:21-23).     Không vị thầy nào dám nói như Chúa Giê-xu “trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng?”  Ngược lại, Khổng Tử  nói “nhân vô thập toàn.” (là con người, không ai hoàn hảo cả) vì ông biết mình cũng chỉ con người mà thôi và đều bất toàn.

  • Hạ mình phục vụ như đầy tớ

Một trong những đức tính nổi bật của Chúa Giê-xu là đức nhu mì, khiêm nhường. Ngài  đã để lại một ấn tượng sâu sắc cho các môn đệ khi rửa chân cho họ để dạy họ bài về sự khiêm nhường, hạ mình phục vụ như một đầy tớ.

Chúa phán: “Ấy vậy, Con người đã đến, không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người.” (Mat.20:28)

Thật không có một vị thầy nào khiêm nhu, hạ mình như thế!

CHÚA GIÊ-XU LÀ HIỆN THÂN CỦA THIÊN CHÚA

Chúa Giê-xu là ai?  Ngài là vị Thầy vĩ đại của người Do Thái? Đúng vậy,  nhưng còn hơn thế nữa! Ngài là vị giáo chủ sáng lập ra Cơ Đốc giáo, một tôn giáo lớn nhất thế giới? Đúng vậy, nhưng còn hơn thế nữa!  Xin thưa: Chúa Giê-xu còn là hiện thân của Thiên Chúa. Ngài chẳng những là giáo sư từ trời mà chính Ngài là Đức Chúa Trời. Ngài đến để bày tỏ về Đức Chúa Trời cho nhân loại và kêu gọi con người quay về thờ phượng Ngài.

  • Kinh Thánh đã xác nhận Ngài là Thiên Chúa trở nên con người

Trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh 700 năm, tiên tri Ê-sai đã dự báo rằng “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta, tức là một con trai ban cho chúng ta; quyền cai trị sẽ nấy trên vai Ngài. Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an.” (Ê-sai 9:5). Trong Phúc âm Giăng 1:1-4 cũng khẳng định Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời: “ Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.”

  • Chính Chúa Giê-xu tự xác nhận

Kinh Thánh cũng ghi lại những lời xác nhận mạnh mẽ của Chúa về chính mình: “Ta  với Cha (Thiên Chúa) là một” (Giăng 10:30)“Ai thấy Ta tức thấy Cha (Thiên Chúa)”(Giăng 14:9b) . “Ta là đường đi, chân lý và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha (Thiên Chúa) (Giăng 14:6) .

Một người tuyên bố như thế chỉ có thể rơi vào một trong ba trường hợp: đó là người mất trí, điên cuồng; thứ hai là người nói ba hoa khoác lác không đáng tin và thứ ba là sự thật. Chắc chắn Chúa Giê-xu không phải người mất trí; Ngài cũng không phải là người khoác lác, kiêu ngạo. Vậy thì Ngài thật sự như Ngài đã tuyên bố.

Học giả kiêm nhà văn nổi tiếng Lâm Ngữ Đường trước đây không tin Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời và tìm cách phủ nhận sự xác nhận đó.  Nhưng khi trở lại với Cơ Đốc giáo, ông đã mạnh mẽ khẳng định:“Tôi khám phá ra rằng, từ xưa đến giờ chưa ai dám nói những lời như Chúa Giê-xu đã nói.” “Không có một bậc thầy nào ở đời này hiểu biết và có mối quan hệ đặc biệt như thế với Đức Chúa Trời. Chính vì sự hiểu biết và có mối quan hệ mật thiết đó mà Chúa Giê-xu đã dám tuyên bố một cách mạnh mẽ rằng “Ai thấy ta là đã thấy Cha.” Và khi đọc lại Kinh Thánh, ông tuyên bố: “Trở về với Thánh Kinh, tôi thấy Thánh Kinh không chỉ là quyển sách ghi lại những dữ kiện lịch sử, nhưng cũng ghi lại sự mặc khải chính xác, qua Chúa Giê-xu; chính sự mặc khải đó đã đem Đức Chúa Trời xuống ngang tầm mắt của tôi, để tôi có thể biết Ngài.”. [2]

CHÚA GIÊ-XU LÀ CỨU CHÚA CỦA NHÂN LOẠI

  • Nhân loại tuyệt vọng cần một Đấng Cứu Thế

Chúa Giê-xu không chỉ là vị giáo sư vĩ đại từ trời mà điều quan trọng hơn, Ngài còn là Đấng Cứu Thế của cả nhân loại. Nếu Chúa Giê-xu đến thế giới này để giảng dạy những điều cao siêu, vĩ đại rồi cuối cùng cũng chết nằm yên trong mộ như bao giáo chủ, giáo sư ở đời thì Ngài cũng không hơn gì các vị ấy. Không, Chúa Giê-xu đến thế giới này với một sứ mệnh của một Đấng Cứu Thế . Ngài đến để thi hành kế hoạch cứu rỗi nhân loại. Vì thế, Ngài mang tên là Giê-xu nghĩa là  Đấng Cứu Thế.

Và Christ hay Cơ Đốc có nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu.

Chúa Giê-xu đem sự cứu rỗi đến cho nhân loại qua sự chết đền tội trên thập tự giá

Nhân loại đang bất lực trước nan đề tội lỗi, đau khổ, sự chết do con người đã phạm tội, xa cách Ngài. Vì thế Chúa Giê-xu đã chịu chết trên cây thập tự, đổ huyết ra bôi xóa tội lỗi chúng ta và Ngài đã sống lại để ban niềm hy vọng cho chúng ta. Kinh Thánh quả quyết “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” Con người cần đức tin đến Chúa Giê-xu là Đấng vô tội chuộc tội để được tha thứ và trở về với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa, là Nguồn sống.

Tóm lại, Chúa Giê-xu là vị Thầy vĩ đại bởi vì Ngài là giáo sư từ trời, là hiện thân của Đức Chúa Trời đã đến với nhân loại để chịu chết chuộc tội để ban ơn cứu rỗi cho mọi người.  Hãy bày tỏ lòng biết ơn vị Thầy vĩ đại Giê-xu bằng cách tiếp nhận Ngài vào lòng, tôn Ngài làm Cứu Chúa và Chủ của cuộc đời mình và noi dấu chân Ngài!

Ghê-đê-ôn Được Chúa Dùng

Ghê-đê-ôn Được Chúa Dùng

Được Chúa dùng là đặc ân mà Đức Chúa Trời dành cho những ai thuộc về Ngài và sẵn sàng để Ngài sử dụng. Khác với những địa vị trong xã hội, người được Chúa dùng không thể tự cất nhắc mình lên bằng tiền bạc, quyền lực, nhưng bởi ân sủng và sự kêu gọi của Ngài. Chúa chọn và dùng ai thì Ngài cũng ban cho ơn và những phước hạnh đặc biệt. Đây là điều kỳ diệu và cũng là sự khích lệ cho những ai đã, đang và sẽ được Chúa dùng không nản lòng, bỏ cuộc, khi đối diện với những nghịch cảnh và nan đề trong chức vụ. Bởi lẽ, người được Chúa dùng không phải lúc nào cũng được hanh thông, được mọi người khen ngợi,… vì nhiều khi phải đối diện với những mối nguy hại trước mắt, có lúc nguy hại đến cả tính mạng. Nhưng người được Chúa dùng thì Ngài cũng có những phương cách đặc biệt dành cho người ấy.

1/ CHÚA BIẾT KHẢ NĂNG CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN: (Các Quan

 Xét 6:12)

Ghê-đê-ôn, con trai Giô-ách, người A-bi-ê-xê-rít, thuộc chi phái Ma-na-se (Các Quan Xét 6:11,15) cũng đồng chung số phận với dân tộc Y-sơ-ra-ên dưới ách thống trị của người Ma-đi-an trong bảy năm. Đây là hậu quả của việc dân Y-sơ-ra-ên thờ thần tượng, làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va

(Các Quan Xét 6:1).

Dù bảy năm, nhưng đây là giai đoạn dân Y-sơ-ra-ên phải đối diện với sự nghèo khó cùng cực: “Vậy, vì cớ dân Ma-đi-an, Y-sơ-ra-ên bị nghèo khổ bẩn chật, nên họ kêu cầu cùng Đức Giê-hô-va” (Các Quan Xét 6:6). Nên Chúa đã kêu gọi Ghê-đê-ôn và dùng ông làm quan xét để cứu dân sự khỏi tay người Ma-đi-an. Lúc bấy giờ, Ghê-đê-ôn cũng giống như mọi người, ông đang đập lúa mạch trong bàn ép để tránh khỏi sự truy đuổi và cướp bóc của dân Ma-đi-an. Ông cũng chỉ là một người dân Y-sơ-ra-ên bình thường, có thể ông cũng chưa biết chiến đấu, đánh trận là như thế nào. Nhưng khi gặp ông, thiên sứ của Chúa đã gọi ông là “dõng sĩ” vì Ngài biết được thực trạng của ông (Các Quan Xét 6:12). Khi giao cho trọng trách giải cứu dân tộc, “người thưa rằng: Than ôi! Hỡi Chúa, tôi sẽ lấy chi giải cứu Y-sơ-ra-ên? Kìa, trong chi phái Ma-na-se, họ tôi vốn nghèo hơn hết; còn tôi là nhỏ hơn hết trong nhà cha tôi”. Tinh thần khiêm nhường là điều đáng quý và nên trân trọng đối với người được Chúa dùng. Tuy nhiên, đó không phải là lý do để thoái thác trọng trách Đức Giê-hô-va giao phó. Ngài phán bảo Ghê-đê-ôn: “Hãy dùng sức của ngươi vẫn có mà đi giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an” (6:14), Ngài cũng phán bảo chúng ta hãy dùng sức mà chúng ta đang có để phục vụ Ngài.

Chúa biết chúng ta là ai, chúng ta được nắn nên bởi giống chi, Ngài biết khả năng và sức lực của mỗi chúng ta. Bởi vậy, thay vì chỉ sống cho riêng mình, quanh quẩn bên những câu hỏi “hôm nay ăn gì mặc gì?” thì hãy phó thác đời sống mình cho Ngài, sẵn sàng để Ngài sử dụng trong mọi công tác mà Chúa và Hội Thánh giao phó. Nếu có ai đó mặc cảm, “tôi không đủ khả năng, đủ ân tứ, tôi không biết nói chi,…” thì cần nhớ rằng, chính Đức Giê-hô-va biết chúng ta là ai, Ngài biết khả năng mỗi người. Ngài giao việc tùy vào thái độ và khả năng, thay vì chúng ta thắc mắc, “tôi sẽ làm được gì, tôi sẽ làm thế nào” thì hãy nhớ rằng, “tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

Nếu Ghê-đê-ôn tự ý thức mình là ai, và mình có khả năng giải cứu dân tộc, hay có ai đó cho ông biết thực trạng của ông và khuyến khích ông đứng lên làm quan xét. Thì chắc chắn ông không thể đạt những thành công suốt cuộc đời, có thành công đi nữa cũng không trọn vẹn. Nhưng Kinh Thánh cho biết, chính Đức Giê-hô-va là Đấng đã sai đi và ở cùng ông, “Đức Giê-hô-va xây lại cùng người mà phán rằng: Hãy dùng sức của ngươi vẫn có mà đi giải cứu Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng sai ngươi đi sao?” “Ta sẽ ở cùng ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy” (Các Quan Xét 6:14,16).

2/ CHÚA SAI ĐI VÀ Ở CÙNG GHÊ-ĐÊ-ÔN: (Các Quan Xét 6:14)

“…Ta há chẳng sai ngươi đi sao?,… Ta sẽ ở cùng ngươi” đây chính là điểm tựa vững chắc khiến Ghê-đê-ôn sẵn sàng phó dâng cho Đức Giê-hô-va sử dụng. Đây cũng là sự khích lệ dành cho chúng ta là những người đang và sẽ được Chúa dùng. Nhưng là điều đáng suy nghĩ cho những ai mang danh nghĩa là người phục vụ Chúa mà thực chất là kiếm lợi riêng cho bản thân, không thực sự được Chúa dùng.

Giống như Môi-se khi được Chúa kêu gọi để Ngài sử dụng, Ghê-đê-ôn cũng nhận thấy mình không đủ khả năng và mặc cảm: “Người thưa rằng: Than ôi! Hỡi Chúa, tôi sẽ lấy chi giải cứu Y-sơ-ra-ên? Kìa, trong chi phái Ma-na-se, họ tôi vốn nghèo hơn hết; còn tôi là nhỏ hơn hết trong nhà cha tôi” (6:15). Nhưng Chúa sử dụng Ghê-đê-ôn và chúng ta không phải vì ông và chúng ta xứng đáng, mà đó là đặc ân Chúa dành cho người Ngài chọn. Chúa có thể sử dụng bất kỳ ai và bất cứ cách gì để giải cứu dân sự khỏi người Ma-đi-an, nhưng Ngài muốn ông Ghê-đê-ôn và chúng ta phải là người làm việc đó bằng chính sức chúng ta đang có. Chúa cũng khẳng định trọng trách giải cứu dân tộc là do Ngài sai Ghê-đê-ôn chứ không phải bởi ý riêng của một người nào. Mạng lệnh thường đi đôi với lời hứa: “Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ ở cùng ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy” (6:16). Khi Chúa kêu gọi và sử dụng Môi-se, “Môi-se bèn thưa rằng: Tôi là ai, dám đi đến Pha-ra-ôn, đặng dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ê-díp-tô? 12 Đức Chúa Trời phán rằng: Ta sẽ ở cùng ngươi, …” (Xuất Ê-díp-tô Ký 3:11-12). Ngài cũng đã từng hứa với Giô-suê, “trót đời ngươi sống, sẽ chẳng ai chống cự được trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như ta đã ở cùng Môi-se; ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu” (Giô-suê 1:5).

Ban đầu, khi thiên sứ của Chúa phán rằng: “Hỡi người dõng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi” (6:12), Ghê-đê-ôn đã trách Chúa: “Ôi! Chúa, nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi, sao các điều nầy xảy đến cho chúng tôi? Các phép lạ kia ở đâu mà tổ phụ chúng tôi đã thuật lại rằng: Đức Giê-hô-va há chẳng có đem chúng ta ra khỏi xứ Ê-díp-tô sao? Vì bây giờ Đức Giê-hô-va từ bỏ chúng tôi, và phó chúng tôi vào tay dân Ma-đi-an” (6:13). Chúa bảo Ngài vẫn ở cùng ông, nhưng hoạn nạn trong bảy năm vừa qua mà dân sự phải chịu chính là hậu quả của việc họ lìa bỏ Chúa quay sang thờ thần tượng, chứ không phải là Chúa lìa bỏ họ. Điều đó khẳng định chỉ có việc chúng ta lìa bỏ Ngài, chứ Ngài vẫn luôn ở cùng chúng ta, nếu chúng ta cứ trung tín để Ngài sử dụng.

Ai trong chúng ta là người được Chúa sử dụng vào những công tác lớn, hay được góp phần trong các công việc nhỏ và thầm lặng, hãy yên tâm, vững lòng, bền chí vì chính Đức Giê-hô-va đã gọi và sử dụng thì Ngài cũng sẽ ở cùng chúng ta trong mọi việc. Đừng nhìn vào hoàn cảnh, nhưng hãy nhớ rằng chúng ta không cô đơn, dù có khi phục vụ Chúa thật lòng nhưng không một ai ủng hộ, thì Đức Giê-hô-va là Đấng vẫn ở cùng và bênh vực chúng ta đúng thời điểm. Hơn thế nữa, để được Chúa sử dụng, Ghê-đê-ôn còn làm một việc gây chấn động cả gia đình và bà con hàng xóm. Đó là việc ông sẵn sàng dẹp bỏ thần tượng trong gia đình.

3/ GHÊ-ĐÊ-ÔN SẴN SÀNG DẸP BỎ THẦN TƯỢNG: (Các Quan Xét 6:16)

Trong cũng một đêm ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Ghê-đê-ôn rằng: Hãy bắt con bò đực tơ của cha ngươi, và một con bò đực thứ nhì bảy tuổi, rồi phá dỡ bàn thờ thần Ba-anh tại nhà cha ngươi, và đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở trên đó” (6:25). Trước khi được Đức Giê-hô-va sử dụng, Ngài muốn Ghê-đê-ôn phải dẹp bỏ, đánh đổ những thần tượng trong gia đình. Người được Chúa sử dụng phải dẹp bỏ mọi thần tượng còn vương vấn trong đời sống. Thần tượng trong đời sống của người được Chúa sử dụng có khi chính là tiền bạc, địa vị, những điều đó đã khiến nhiều người đánh mất chức vụ, nên khi sai phái mười hai sứ đồ ra đi Chúa Giê-xu đã phán dặn: “Hãy chữa lành kẻ đau, khiến sống kẻ chết, làm sạch kẻ phung, và trừ các quỉ. Các ngươi đã được lãnh không thì hãy cho không. Đừng đem vàng, hoặc bạc, hoặc tiền trong lưng các ngươi; cũng đừng đem cái bao đi đường, hoặc hai áo, hoặc giày, hoặc gậy; vì người làm việc đáng được đồ ăn” (Ma-thi-ơ 10:8-10).

Ghê-đê-ôn đã sẵn sàng dẹp bỏ thần tượng trong gia đình mình, “Ghê-đê-ôn chọn lấy mười người trong bọn đầy tớ mình, và làm theo điều Đức Giê-hô-va đã phán dặn” (6:27), dù biết rằng sẽ phải đối diện với sự bắt bớ của gia đình và bà con hàng xóm, “người sợ nhà cha mình cùng kẻ trong thành, nên không dám làm theo lịnh ấy ban ngày, bèn làm ban đêm” . Việc gì đến cũng phải đến: “Sớm mai, khi dân trong thành thức dậy, thấy bàn thờ của thần Ba-anh đã bị phá dỡ, hình tượng A-sê-ra ở trên bị đánh hạ, và con bò đực thứ nhì đã dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ mới lập đó. Chúng hỏi nhau rằng: Ai làm điều đó? Đoạn, hỏi thăm và tra xét. Có người nói cùng chúng nó rằng: Ấy là Ghê-đê-ôn, con trai Giô-ách, đã làm điều đó” (6:28-29).

Hoàn cảnh trước mắt, Ghê-đê-ôn phải đương đầu với tất cả dân trong thành. Thậm chí có thể chính gia đình của ông nữa, “dân trong thành bèn nói cùng Giô-ách rằng: Hãy biểu con ngươi ra, nó phải chết, vì nó đã phá dỡ bàn thờ thần Ba-anh, và đánh hạ hình tượng A-sê-ra ở trên” (6:31). Nhưng người Đức Giê-hô-va đã chọn để dùng thì Ngài có phương cách để giải cứu kịp lúc, đúng thời điểm. Người giải cứu cho Ghê-đê-ôn ngay lúc “ngàn cân treo sợi tóc” ấy chính là Giô-ách, cha của ông. Dù đang thờ thần tượng, dù Ghê-đê-ôn đã dẹp thần tượng trong nhà, nhưng khi quyết định chọn giữa thần tượng và mạng sống của con trai mình, Giô-ách đã không ngần ngại bảo vệ Ghê-đê-ôn. Đây không phải là việc do con người làm, nhưng là bởi sự hướng dẫn từ Đức Chúa Trời. Chính lúc ấy, Giô-ách cũng nhận ra sự vô tri vô giác của thần tượng: “Nếu hắn là chúa, thì chính hắn hãy tranh luận lấy chớ, bởi vì người ta đã phá dỡ bàn thờ của hắn!” (6:31b).

Chính việc dứt khoát dẹp bỏ thần tượng của Ghê-đê-ôn không chỉ là hành động vâng lời Đức Giê-hô-va mà việc làm đó còn giúp Giô-ách thấy rõ sự hư không của thần tượng, để trở về cùng Đức Giê-hô-va hằng sống và chân thật. Sự vâng lời của Ghê-đê-ôn là hành động của người được Chúa dùng, nên dù trước mắt kẻ thù có đông và mạnh như được mô tả: “Hết thảy dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và người phương Đông đều hiệp lại, đi ngang qua sông Giô-đanh, và đóng trại tại trũng Gít-rê-ên” (6:33) thì đối với Ghê-đê-ôn cũng chỉ “như đánh một người” vì “Thần của Đức Giê-hô-va cảm hóa Ghê-đê-ôn” hay còn có nghĩa “Thánh Linh mặc lấy cho”. Điều này chỉ được nhắc đến 3 lần trong Kinh Thánh (I Sử Ký 2:18; II Sử Ký 24:20). Đây chính là yếu tố cần và đủ để Ghê-đê-ôn dành được thắng lợi liên tiếp trước dân Ma-đi-an khiến “dân Ma-đi-an bị phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, chẳng cất đầu lên được nữa; nên trong đời Ghê-đê-ôn, xứ được hòa bình trọn bốn mươi năm” (Các Quan Xét 8:28).

Chúa kêu gọi và sử dụng mỗi chúng ta vào những công tác khác nhau trong nhà Ngài: “Ấy chính Ngài đã cho người nầy làm sứ đồ, kẻ kia làm tiên tri, người khác làm thầy giảng Tin lành, kẻ khác nữa làm mục sư và giáo sư” (Ê-phê-sô 4:11) không phải là việc ngẫu nhiên, nhưng vì Chúa biết khả năng của mỗi người. Ngài đã sai ai đi để Ngài sử dụng thì Ngài cũng ở cùng người ấy, nhưng điều Ngài cần ở người được Chúa sử dụng, đó chính là sẵn sàng dẹp bỏ mọi thần tượng ngăn trở trong đời sống, đứng hoàn toàn về phía Đức Giê-hô-va, không đi giẹo hai bên.

Chúa Dùng Người Tầm Thường

Chúa Dùng Người Tầm Thường

 

Sáng 26:1-35

Có bao giờ quí vị cảm thấy Đức Chúa Trời không thể dùng quí vị hầu việc Ngài vì quí vị là quá tầm thường không? Tôi thỉnh thoảng có ý nghĩ đó. Nhưng tôi được khích lệ rất nhiều vì biết rằng Đức Chúa Trời vui lòng dùng người tầm thường.

Một lý do khiến câu chuyện về Y-sác được ghi ở trong Kinh Thánh là để chúng ta thấy cách Đức Chúa Trời có thể dùng một người tầm thường. Y-sác là một đứa con tầm thường của một người cha danh tiếng, và là người cha tầm thường của một đứa con danh tiếng. Một nhà giải kinh, Alexander Maclaren đã nói, “đặc điểm nổi bật của cuộc đời Y-sác là không có đặc điểm nổi bật nào”. Mặc dù ông sống lâu hơn Áp-ra-ham, Gia-cốp và Giô-sép, nhưng đời sống của Y-sác chỉ được gói gọn trong một chương, trong đó đặc điểm thú vị nhất là cuộc cãi nhau ầm ĩ về một vài cái giếng.

Y-sác là một người tầm thường, ông không can đảm như cha ông là Áp-ra-ham, là người đã thực hiện một cuộc đột kích táo bạo vào các vua đông phương. Ông không lanh lợi như con trai ông, Gia-cốp, hay là một nhà lãnh đạo tài ba như cháu nội ông là Giô-sép. Thế nhưng, Đức Chúa Trời đã dùng ông để thực hiện những lời hứa giao ước của Ngài. Cuộc đời của ông cho chúng ta thấy rằng có hy vọng trong Chúa cho tất cả chúng ta là những người tầm thường!

Chúa Giê-xu đã hứa rằng Ngài sẽ lập Hội Thánh Ngài. Bất chấp sự chậm chạp của chúng ta – và thậm chí tội lỗi nữa – Đức Chúa Trời sẽ ban phước và dùng chúng ta để làm thành ý định của Ngài là ban phước cho mọi dân tộc qua Chúa Giê-xu, vì cớ mối quan hệ của chúng ta với Đức Chúa Cha qua Đức Chúa Con. Nhưng chúng ta cần phải lớn lên trong đức tin và sự vâng lời. Vì vậy, điểm nhấn mạnh của chương nầy là Đức Chúa Trời thực hiện ý định của Ngài qua những con người tầm thường biết vâng lời Ngài.

I. Đức Chúa Trời dùng những người tầm thường

Hãy lưu ý Y-sác là một người tầm thường như thế nào với những nan đề thông thường:

  1. Người tầm thường có những thử thách thông thường

Y-sác có những thử thách thông thường. Câu 1 cho chúng ta biết rằng “có một cơn đói kém trong xứ”. Xứ nào? Đất hứa! Xứ mà Đức Chúa Trời đã hứa cho Áp-ra-ham và con cháu ông, về sau được mô tả là đượm sữa và mật. Có một cơn đói kém trong xứ đó. Trong khi Đức Chúa Trời có thể dễ dàng cung cấp cho Y-sác dư dật lương thực bất chấp cơn đói kém xung quanh ông thì Ngài đã không làm điều đó. Người được chọn của Đức Chúa Trời phải chịu khổ cùng với mọi dân Ca-na-an ngoại giáo lân cận với ông.

Thử thách là kinh nghiệm bình thường của con dân Đức Chúa Trời, thậm chí khi họ ở đúng nơi Ngài muốn họ ở. Vì lý do nào đó chúng ta có ý niệm là nếu Đức Chúa Trời gọi chúng ta đến một nơi hay đến một công tác nào đó, thì chúng ta sẽ không hề đối đầu với nan đề nào cả. Mọi sự sẽ là “sữa và mật”. Khi con đường trở nên gồ ghề thì chúng ta thắc mắc không biết có gì sai trật không. “Có lẽ mình không ở trong ý Chúa”.

Đức Chúa Trời cao cả của chúng ta đã luôn luôn dùng thử thách, thậm chí đối với những đầy tớ của Ngài đang ở giữa ý muốn của Ngài, để đẩy chúng ta đến sự nương cậy Ngài nhiều hơn. Thử thách là kinh nghiệm bình thường của con dân Đức Chúa Trời.

2. Người tầm thường có những nỗi sợ thông thường

Y-sác có những mối lo sợ thông thường. Những người bình thường làm gì khi họ gặp thử thách? Họ hoảng sợ. Y-sác đã làm gì? Ông hoảng sợ. Thật tuyệt vời nếu đọc thấy, “Có cơn đói kém trong xứ, vì vậy Y-sác tìm kiếm Chúa.” Nhưng phân đoạn Kinh Thánh nói một cách đơn giản, “Y-sác bèn đi đến A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra.” Rõ ràng là ông không hoạch định dừng lại tại đó. Ông đang tiến đến Ai Cập thì Đức Chúa Trời chặn đứng ông ở Ghê-ra.

Chúng ta cũng thấy sự sợ hãi của Y-sác khi ông nói Rê-be-ca là em gái của ông (26:7). Ông đi theo bước chân của cha ông. Tại sao làm một điều hèn hạ như vậy? Ông lo sợ cho mạng sống của ông. Sau đó, Chúa đã hiện ra cho Y-sác và phán rằng (26:24), “Chớ sợ chi, ta ở cùng ngươi.” Chúa không bao giờ phán “Đừng sợ” trừ phi có người nào đó sợ. Y-sác có nhiều nỗi lo sợ.

Quí vị có nỗi lo sợ nào không? Chúng ta nên đem những nỗi lo sợ của chúng ta đến với Chúa trong sự cầu nguyện, và hãy thật tình cầu nguyện cho những nỗi lo sợ của chúng ta. Người mà Đức Chúa Trời dùng là người tầm thường có những nỗi sợ hãi thông thường.

3. Người tầm thường vì có tội lỗi thông thường

Y-sác có tội lỗi thông thường. Tôi không có ý nói rằng dung dưỡng một chút tội lỗi trong đời sống là không sao. Chúng ta phải xưng nhận tội lỗi và từ bỏ mọi tội mà mình biết. Nhưng chúng ta cần nhớ rằng người duy nhất mà Đức Chúa Trời dùng là những tội nhân được chuộc. Đôi khi kẻ thù khiến chúng ta suy nghĩ rằng Đức Chúa Trời không thể dùng chúng ta nếu chúng ta là người có sự pha trộn giữa thiện và ác. Nhưng tạ ơn Chúa, Ngài dùng chúng ta trong khi chúng ta đang lớn lên, trước khi chúng ta đến đích! Hãy nhìn vào sự pha trộn giữa tội lỗi và sự vâng lời trong đời sống Y-sác. Ông bắt đầu đi đến Ai Cập mà không hề cầu vấn Chúa. Chúa thậm chí tái xác nhận giao ước mà Ngài đã lập với Áp-ra-ham, và áp dụng nó cho Y-sác. Nhưng điều kế tiếp mà Y-sác làm là nói dối về Rê-be-ca vì ông sợ sẽ bị giết!

Một lần nữa, vấn đề không phải là chúng ta dung dưỡng tội lỗi, mà là chúng ta không thất vọng vì nghĩ rằng Đức Chúa Trời không thể dùng chúng ta vì chúng ta vật lộn với tội lỗi. Đôi khi người được Đức Chúa Trời dùng là những tội nhân, tầm thường như quí vị và tôi, nhưng, như một chút nữa tôi sẽ trình bày, những tội nhân đang học tập vâng lời Đức Chúa Trời.

4. Người tầm thường có những rắc rối thông thường

Y-sác có những rắc rối thông thường. Chương nầy cho thấy những rắc rối mà ông có với những người chăn chiên hàng xóm về các giếng nước.

Quí vị có nghĩ rằng Y-sác có bao giờ thắc mắc khi ông bị phủ đầy mồ hôi và bụi đất vì đào một trong những cái giếng nầy, “mọi điều nầy có liên quan gì đến ý định của Đức Chúa Trời?”. Ý định của Đức Chúa Trời nghe có vẻ rất đẹp, rất thuộc linh! Nhưng Y-sác mất thì giờ cãi cọ với những người hàng xóm và đào những cái giếng mà họ đã lấp lại. Điều đó có vẻ không đẹp gì lắm!

Quí vị có biết Đức Chúa Trời dùng những rắc rối nầy như thế nào không? Mỗi cái rắc rối buộc Y-sác phải di chuyển đến gần đất hứa hơn một chút, cho đến khi cuối cùng ông đến rất gần Bê-e-sê-ba mà ông đã quyết định trở về một lần nữa. Đức Chúa Trời dùng những rắc rối để đưa ông trở về nơi ông phải ở.

Quí vị có bao giờ suy nghĩ tại sao Đức Chúa Trời cho phép có những rắc rối trong đời sống quí vị không? Có lẽ đó là một vụ rắc rối về xe cộ, hay về hệ thống nước nôi trong nhà, hay một vụ rắc rối tại chỗ làm. Nếu quí vị vâng phục Chúa và chịu dạy dỗ, quí vị sẽ khám phá rằng Ngài dùng những rắc rối hằng ngày để đưa chúng ta gần hơn đến chỗ Ngài muốn chúng ta ở, tức chỗ ơn phước của Ngài. Y-sác chưa bao giờ dựng một bàn thờ nào cho đến khi Chúa đem ông trở về Bê-e-sê-ba. Nhưng khi ông đến đó, sau mọi rắc rối của ông, ông lập một bàn thờ và cầu khẩn danh Chúa (26:25).

Vậy Y-sác có những thử thách, những nỗi sợ hãi, tội lỗi, và rắc rối thông thường.

5. Người tầm thường có những nan đề gia đình thông thường

Y-sác có những nan đề gia đình thông thường. Chương nầy kết thúc bằng cách thuật lại cuộc hôn nhân của Ê-sau với hai người đàn bà ngoại giáo đã đem lại sự đau buồn cho Y-sác và Rê-be-ca (26:34-35). Đây là gia đình quan trọng bậc nhất trên mặt đất trong khi ý định của Đức Chúa Trời diễn tiến, nhưng họ có nhiều nan đề. Họ khác xa một gia đình gương mẫu.

Một lần nữa, tôi không có ý nói chúng ta có thể nhún vai coi thường tội lỗi. Nếu quí vị đang phạm tội đối với gia đình mình, quí vị cần phải giải quyết nó. Nhưng tôi muốn khích lệ những người có gia đình không hoàn hảo – và đó là tất cả chúng ta! Chúa cho cho chúng ta thấy ở đây rằng người tộc trưởng Y-sác có những thử thách, sự sợ hãi, tội lỗi, những phiền muộn và nan đề gia đình. Tuy nhiên, Chúa vui lòng dùng Y-sác khi ông học vâng lời Chúa.

II. Đức Chúa Trời dùng những người tầm thường biết vâng lời Ngài.

Sự lớn lên của Y-sác trong sự vâng lời là chậm chạp, và không bao giờ trọn vẹn. Ông vẫn thiên vị chúc phước cho Ê-sau thay vì Gia-cốp, bất chấp đường lối không tin kính của Ê-sau. Nhưng, bất kể sự bất toàn của ông, chúng ta có thể thấy sự tiến bộ của ông trong sự vâng phục, và Đức Chúa Trời đáp ứng với điều đó. Khi Chúa lần đầu hiện ra cho Y-sác để bảo ông đừng đi đến Ai Cập, Chúa đã nhấn mạnh đến sự vâng lời của Áp-ra-ham (26:5). Câu kế tiếp thuật lại sự vâng lời của Y-sác. Đó không phải là tự động. Nên nhớ, có một cơn đói kém. Để vâng lời, Y-sác phải tin cậy Chúa và thay đổi kế hoạch. Nhưng ông đã làm điều đó. Khi những người hàng xóm tranh đấu với Y-sác, ông đã không chiến đấu giành quyền lợi của ông. Ông tìm kiếm sự hoà bình bằng cách nhường quyền lợi của mình và tiếp tục di chuyển.

Khi Y-sác cuối cùng trở về đến Bê-e-sê-ba, nơi Áp-ra-ham đã sinh sống, Chúa hiện ra cho Y-sác lần thứ hai, tái xác nhận ơn phước và sự bảo vệ của Ngài (26:24). Hiệp ước hoà bình với A-bi-mê-léc và tin tức về nước được tìm thấy là hai bằng chứng nữa cho thấy Y-sác ở đúng nơi Chúa muốn ông ở, nơi của sự vâng lời, nơi mà Áp-ra-ham đã vâng lời Chúa. Bê-e-sê-ba nghĩa là “Giếng của Giao Ước.” Nếu quí vị đã lang thang khỏi Chúa, hãy trở về nơi của sự vâng lời để Chúa sẽ ban phước cho quí vị và xác nhận những lời hứa của Ngài cho quí vị.

Có lẽ quí vị đang thắc mắc, “Tại sao Đức Chúa Trời ban phước cho Y-sác ngay sau khi Y-sác không vâng lời Đức Chúa Trời? (26:12-13). Có hai câu trả lời.

Thứ nhất, nó cho thấy rằng lời hứa giao ước của Đức Chúa Trời dựa trên ân điển, không phải trên việc làm. Đức Chúa Trời muốn chúng ta vâng lời Ngài, và Ngài ban phước cho những kẻ vâng lời. Nhưng đồng thời, Ngài muốn chúng ta nhớ rằng ý định cao cả của Ngài không tuỳ thuộc vào sự vâng lời của chúng ta, mà tuỳ thuộc vào ân điển cao cả của Ngài.

Thứ hai, lưu ý rằng trong khi Đức Chúa Trời ban phước cho Y-sác về vật chất thì chính ơn phước đó cũng là một nguồn sửa dạy, vì nó khiến người Phi-li-tin ghen tị với Y-sác và lấp các giếng nước của ông (26:14-15). Sự sửa dạy nầy là để đem Y-sác trở về Bê-e-sê-ba, nơi Đức Chúa Trời muốn ông ở. Vấn đề là cách Đức Chúa Trời hành động để hoàn thành ý định của Ngài qua con người tầm thường nầy, là Y-sác. Nếu để tuỳ vào Y-sác thì ông sẽ thoả lòng ở lại trong xứ của người Phi-li-tin. Nhưng Đức Chúa Trời đã nhơn từ dùng ơn phước làm sự sửa dạy để đem Y-sác vào giữa ý muốn của Ngài.

III. Đức Chúa Trời dùng những người tầm thường biết vâng lời Ngài để hoàn thành thánh ý

Ý định của Đức Chúa Trời là chủ đề của chương nầy. Ngài lặp lại nó cho Y-sác trong các câu 3 & 4: “…ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; …hết thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước.” Ý định của Đức Chúa Trời là ban phước cho dân Ngài và dùng họ để ban phước cho các dân khác qua hậu tự của Áp-ra-ham, là Cứu Chúa Giê-xu. Các giếng nước đóng vai trò chủ chốt trong đời sống Y-sác là biểu tượng cho ơn phước của Đức Chúa Trời. A-bi-mê-léc, vị vua ngoại quốc, nhìn thấy bằng chứng về ơn phước của Đức Chúa Trời trong đời sống Y-sác, nên tìm sự hoà bình với ông để ông có thể chia sẻ những ơn phước ấy. Vì vậy chương nầy cho thấy Đức Chúa Trời hành động chậm chạp nhưng vững chắc phía sau hậu trường với con người tầm thường nầy, vốn là con của Áp-ra-ham, để thực hiện kế hoạch của Ngài nhằm ban phước cho các dân tộc.

Ngày nay, chúng ta cần thấy mình trong chiều chuyển động của những gì Đức Chúa Trời đang làm trong lịch sử. Ngài đã ban phước cho chúng ta, không phải chỉ để chúng ta được phước mà thôi, nhưng cũng để chúng ta có thể trở nên một ơn phước cho người khác. Ngài muốn chúng ta, dù là tầm thường, trở thành ống dẫn để đem sứ điệp của Cứu Chúa Giê-xu đến với mọi dân tộc. Điều đó nghe có vẻ đẹp đẽ, nhưng rất thường khi nó bao gồm nhiều rắc rối trần tục như việc đào giếng và tranh đấu với với những con người hay gây hấn. Đức Chúa Trời đã không ban xứ cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp bằng phép mầu của chiếc đũa thần của Ngài. Những người mà đang được Môi-se đề cập đều phải trải qua những chiến trận để chiếm lấy Ca-na-an từng chút một.

Còn chúng ta phải chiến đấu từng xăng-ti-mét một, từ rắc rối nầy qua rắc rối khác, để đem sứ điệp cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho những người trong từng quận, trong cả thành phố, cho đến mọi miền của thế giới. Vậy xin hãy nhớ nhìn những rắc rối của cuộc đời quí vị trong ánh sáng của kế hoạch to lớn hơn của Đức Chúa Trời cho lịch sử. Nếu quí vị vâng lời Ngài, Ngài sẽ dùng những nan đề hằng ngày mà quí vị, đứa con tầm thường của Ngài, trải qua, để làm hoàn thành ý định của Ngài nhằm ban phước cho các dân tộc.

Kết luận

Xưa nay Đức Chúa Trời đã dùng hàng trăm ngàn những con người tầm thường để đem hàng triệu người trên cả thế giới, thuộc mọi thời đại, đến sự cứu rỗi trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đức Chúa Trời cũng muốn dùng quí vị như thế. Nếu quí vị đang vật lộn với những thử thách, những sợ hãi, những tội lỗi, những phiền muộn, và những nan đề gia đình, quí vị có đủ tư cách, miễn là quí vị cũng lớn lên trong sự vâng lời. Như Chúa đã ban phước cho quí vị, hãy dâng chính mình để trở thành ống dẫn ơn phước của Ngài cho nhiều người khác.