Duyệt bởi
Category: NGHIÊN CỨU – DƯỠNG LINH – LỜI CHỨNG

Mầu Nhiệm Phục Sinh

Mầu Nhiệm Phục Sinh

 

 

Nếu tín đồ các tôn giáo khác hãnh diện về một cái xương hay một sợi râu của vị giáo chủ mình đã tìm lại được, thì ngược lại, tín đồ Cơ Đốc giáo lại hãnh diện về một ngôi mộ trống, vì Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại một cách vinh quang! Thật vậy, hai điểm nổi bật trong cuộc đời Chúa Cứu Thế là sự chết và sự sống lại của Ngài. Đó là hai sự kiện quan trọng và là trung tâm điểm của chương trình cứu rỗi mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi và sự chết. Đức tin Cơ Đốc giáo đặt nền tảng trên sự chết và sự sống lại mầu nhiệm đó.

 

CÂU CHUYỆN VỀ SỰ CHẾT VÀ SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊ-XU CƠ ĐỐC

 

Muốn biết sự chết và sự sống lại của Chúa Cơ Đốc đã xảy ra như thế nào, chúng ta hãy trở về với những trang Phúc Âm. Cả 4 sách Phúc âm đã ghi lại một cách cụ thể, rõ ràng và trung thực về sự chết và sự sống lại của Ngài (Ma-thi-ơ 27 & 28; Mác 15 & 16; Lu-ca 23 & 24; Giăng 19 & 20). Xin tóm lược câu chuyện như sau: Đến năm 30 tuổi, Chúa Giê-xu bắt đầu thi hành chức vụ của Ngài trên đất. Ngài đi đây đó, rao giảng Đạo Cứu rỗi, làm nhiều phép lạ và có nhiều người theo Ngài. Nhưng các lãnh tụ tôn giáo và chính quyền La Mã lúc bấy giờ chống đối và tìm cách giết Ngài. Họ bắt Ngài đem đi tra hỏi, đánh đập, sỉ nhục và cuối cùng đóng đinh Ngài trên cây thập tự. Sau khi chết, Ngài được một môn đồ tên là Giô-sép đến xin xác Ngài đem liệm rồi để trong một cái huyệt đục trong hốc đá lớn và lăn hòn đá chận cửa huyệt lại (đây là lối mai táng theo phong tục Do Thái). Cách 3 ngày sau, lúc tờ mờ sáng ngày thứ nhất trong tuần lễ (tức ngày Chúa Nhật) có mấy người đàn bà yêu mến Chúa đến thăm mộ. Kinh Thánh chép: “Kìa, đất rúng động dữ dội vì có thiên sứ của Chúa ở trên trời xuống đến lăn hòn đá ra mà ngồi ở trên. Hình dung của thiên sứ giống như chớp, áo trắng như tuyết. Vì cớ sợ hãi thiên sứ nên bọn lính canh run rẩy trở nên như người chết. Thiên sứ bèn nói cùng các người đàn bà đó rằng: “Đừng sợ vì ta biết các ngươi tìm Giê-xu là Đấng chịu đóng đinh trên cây thập tự giá. Ngài không ở đây đâu vì Ngài đã sống lại như lời Ngài đã phán. Hãy đến xem chỗ Chúa đã nằm. Rồi hãy đi mau báo cho môn đồ Ngài rằng Ngài đã từ kẻ chết sống lại. Kìa, Ngài đi qua xứ Ga-li-lê trước các ngươi, tại đó các ngươi sẽ thấy Ngài.” Họ bèn vội vàng ra khỏi mộ vừa sợ vừa cả mừng chạy báo tin cho môn đồ Ngài. Bỗng Chúa Giê-xu gặp họ mà phán rằng: “Mừng các ngươi, họ cũng đến ôm chơn Ngài và thờ lạy Ngài. Bấy giờ Chúa Giê-xu phán cùng họ rằng: “Đừng sợ, hãy đi báo cho anh em ta để họ đi qua Ga-li-lê, ở đó sẽ thấy ta” (Ma-thi-ơ 28:1-10). Sau đó, Chúa Giê-xu còn hiện ra nhiều lần, nhiều chỗ cho nhiều người xem thấy. Ngài ở với môn đồ 40 ngày rồi Ngài về trời và phán rằng: “Hãy đi khắp thế gian, giảng Tin Lành cho mọi người. Ai tin và chịu phép báp têm sẽ được rỗi; nhưng ai chẳng tin sẽ bị đoán phạt.” (Mác 16:15-16).

 

Sự phục sinh của Chúa Giê-xu là một biến cố kỳ diệu đến nỗi ngay những môn đồ của Ngài lúc mới đầu cũng không tin, nhưng cuối cùng họ đã thấy tận mắt, rờ tận tay và họ phải tin. Xưa nay cũng có nhiều người cố công tìm kiếm những chứng cớ, lý lẽ để hòng phủ nhận sự sống lại của Chúa Giê-xu, nhưng tất cả đều vô ích vì sự sống lại của Ngài là một thực tại lịch sử không ai có thể phủ nhận được.

 

            Ý NGHĨA SỰ CHẾT CỦA CHÚA GIÊ-XU CƠ ĐỐC

 

Tại sao Chúa Giê-xu phải chiu chết trên cây thập tự một cách đau thương như thế? Ngài chỉ nhập thế và dạy cho con người biết con đường cứu rỗi không đủ sao? Và nếu Ngài là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa toàn năng thì Ngài có thể dùng quyền năng để cứu con người không được sao, hà tất phải chịu khổ và chết đau đớn như vậy? Đó là những câu hỏi thường được nhiều người nêu lên. Để trả lời cho vấn đề nầy, trước hết chúng ta cần tìm hiểu căn nguyên của sự đau khổ và sự chết mà loài người phải chịu. Tội lỗi, đau khổ và sự chết là ba nan đề mà từ xưa đến nay nhân loại không sao giải quyết nổi. Nếu xã hội loài người ngày càng văn minh, tiến bộ vượt bậc, ngày càng có thêm nhiều triết thuyết, chủ nghĩa và những phát minh khoa học tân kỳ thì ngược lại, đạo đức con người ngày càng bại hoại, tội lỗi đầy dẫy, đau khổ chất chồng và cuối cùng con người phải đối diện với sự chết, một thực tại kinh khiếp luôn ám ảnh, đe doạ và thách thức lý trí con người. Sự chết có thể đến với mỗi người bất cứ giờ nào, bất cứ nơi nào, không kỳ hẹn – già chết mà trẻ cũng chết; bịnh tật chết đã đành mà đang mạnh khoẻ cũng có thể chết bất đắc kỳ tử! Ôi! Sự chết là cái gì khủng khiếp và đầy bí ẩn! Trước cái chết như một nỗi bất lực ấy, con người có nhiều thái độ khác nhau: Có người nỗ lực, tìm tòi những phương thuốc “trường sinh” nhằm kéo dài sự sống nhưng rồi cũng vấp phải nấm mồ! Có người thì bi quan, miễn cưỡng, chấp nhận cái chết như một định mệnh nghiệt ngã mà Đấng Tạo Hoá dành cho con người hoặc coi “sự chết là qui luật của cuộc sống” để tự an ủi mình. Có người thì oán trách Thiên Chúa và đâm ra nghi ngờ sự hiện hữu của Ngài: Thật sự có Thiên Chúa, có Ông Trời? Ngài ở đâu và tại sao lại để cho con người đau khổ và chết chóc như thế? Cuối cùng, một thái độ cũng được nhiều người tán đồng là tìm cách thăng hoa cái chết, làm cho nó mang một ý nghĩa đẹp đẽ như “bước vào cõi vĩnh hằng”, “tiêu diêu miền cực lạc” hay “chuyển kiếp”… để mong lãng quên, không bị ám ảnh bởi cái chết. Có thể nói, cuộc đời con người là một chuỗi dài nỗ lực để vượt thoát, trốn chạy thật xa cái chết, nhưng rồi cuối cùng thần chết vẫn đuổi theo kịp!

 

Tại sao có sự chết và đau khổ? Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Nhà thơ Bùi Giáng vốn là người thông thái về triết học, văn chương và cũng có niềm tin tôn giáo nào đó, nhưng đến cuối cuộc đời, ông cũng băn khoăn tự hỏi “Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại. Tôi ra đi mà không biết đi đâu?”

 

Thực ra, có thể nói con người không thể nào tìm ra câu giải đáp thỏa đáng cho những thắc mắc về sự chết, đau khổ, đời sau, nếu không trở về với Kinh Thánh là lời của Thiên Chúa. Kinh Thánh đã trả lời một cách rõ ràng dứt khoát rằng: “Vì mọi người đếu đã phạm tội, hụt mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời.” (Rô-ma 3:23) và “Tiền công của tội lỗi là sự chết” (Rô-ma 6:23). Loài người phải đau khổ và chết vì loài người đã phạm tội cùng Thiên Chúa. Thuỷ tổ của loài người là A-đam và Ê-va đã phạm tội nên phải mang lấy bản án tử ngay từ những ngày đầu tiên và từ đó nhân loại trên trái đất nầy là dòng dõi của ông bà phải rướt lấy hậu quả ấy như một án phạt của Thiên Chúa. “Cho nên như bởi một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian, lại bởi tội lỗi mà có sự chết và như vậy sự chết đã lan khắp mọi người vì mọi người đều đã phạm tội” (Rô-ma 5:12). Kinh Thánh phân biệt ba ý nghĩa của sự chết. Chết về tâm linh (tức là linh hồn không còn tương giao với Thiên Chúa), chết về thể xác (tức là chết tạm thời để chờ ngày phán xét) và chết cả thể xác lẫn linh hồn nơi hoả ngục (đây là sự chết vĩnh cữu, đời đời). Từ khi phạm tội, loài người nói chung đều đã chết về tâm linh, tức là bị phân cách, không giao thông được với Thiên Chúa và chết về thể xác, tức là thể xác trở về bụi đất còn linh hồn được ở một nơi gọi là âm phủ, chờ ngày phán xét cuối cùng để được sống đời đời hoặc bị chết đời đời.

 

Mặc dầu con người phạm tội và phải lãnh án chết như thế, Thiên Chúa vẫn hằng yêu thương con người là một tạo vật kỳ diệu của Ngài. Vì thế, ngay từ buổi sáng thế, Thiên Chúa đã dự bị một phương cách để giải cứu con người khỏi tội lỗi và hậu quả của nó là đau khổ và sự chết. Đó là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh mang hình hài con người, sống giữa nhân loại và cuối cùng hiến thân chịu chết thay cho tội lỗi của cả nhân loại trên cây thập tự. Chỉ có Chúa Giê-xu là Thiên Chúa thành người mới đủ tư cách đại diện cho cả nhân loại mà thôi. Sự chết của Ngài có giá trị chuộc tội cho cả thế gian và cứu nhân loại thoát khỏi án phạt là sự chết. Vì thế, có thể nói Ngài đã chiến thắng sự chết bằng chính cái chết của Ngài. Đó là lý do khiến Chúa Cứu Thế phải chịu chết vậy.

 

Sự chết của Chúa Giê-xu Cơ Đốc còn thể hiện đức công chính, thánh khiết và yêu thương là những bản tính của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Thánh Khiết không chịu được tội lỗi nên khi con người phạm tội, thì phải bị đoán phạt. Nhưng Chúa Giê-xu tự nguyện hiến thân chết thế cho cả nhân loại để nhờ Ngài mà nhân loại được trắng án và được sống. Kinh Thánh chép “Nhưng Đức Chúa Trời tỏ lòng yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là người có tội, thì Đấng Christ vì chúng ta chịu chết.” (Rô-ma 5:8). Sự hiến thân chịu chết của Ngài cũng minh chứng một tình yêu vô biên tuyệt diệu: Ngài là Thiên Chúa quyền năng, vô tội bằng lòng chịu chết vì tội lỗi của nhân loại. Ngài phải chết để nhân loại được sống.

 

            Ý NGHĨA SỰ SỐNG LẠI CỦA CHÚA GIÊ-XU CƠ ĐỐC

 

Sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu là hai sự kiện bất khả phân ly: Không thể có sống lại nếu không chết và nếu Ngài không sống lại thì cũng không ích lợi cho ai cả. Đó cũng chỉ là cái chết của một bậc anh hùng đại nghĩa đáng ca tụng mà thôi chứ không thể giải thoát con người khỏi sự chết. Vâng! Ngài đã sống lại! Những chứng cứ về sự sống lại của Chúa Giê-xu được bày tỏ trước hết qua ngôi mộ trống hiện vẫn còn ở xứ Do Thái, thứ đến qua những lần xuất hiện sau khi sống lại được ghi rõ trong Kinh Thánh và cuối cùng qua sự sống của Ngài trong mỗi đời sống Cơ Đốc nhân.

 

Tại sao Chúa Giê-xu phải sống lại? Sự sống lại của Ngài có ích lợi gì cho chúng ta?

 

Trước hết, chính sự phục sinh của Ngài đã cho chúng ta hiểu được ý nghĩa sự chết của Ngài. Ngài đã dạy rằng: “Nếu hạt lúa mì chẳng rơi xuống đất mà chết thì cứ chỉ một mình, nhưng nếu chết đi thì kết quả nhiều (Giăng 12:24). Một hạt giống cần được gieo xuống đất và tan rã để thành cây và sinh hoa trái, nhưng nếu chỉ bị tan rã mà không nẩy mầm thì đó là một hạt giống vô ích. Cũng thế, nếu Chúa Giê-xu Cơ Đốc không sống lại thì sự chết – một thực tại kinh khiếp đe doạ con người – vẫn còn nguyên vẹn và con người vẫn chưa được giải thoát. Nếu Ngài không sống lại thì làm thế nào có thể cứu nhân lại khỏi sự chết mà đến sự sống được? Và như thế Ngài không phải là Đấng Cứu Thế!

 

Hơn nữa, sự phục sinh của Chúa Cứu Thế bảo đảm cho sự sống lại của những kẻ tin Ngài. Thánh Phao-lô đã phân tích một cách rõ ràng mối tương quan chặt chẽ giữa sự sống lại của Chúa Giê-xu và sự sống lại của những kẻ tin Ngài. Ông xác quyết: “Như trong A-đam mọi người đều chết, thì cũng một lẽ ấy, trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại (I Côr.15:11). Chưa ai từ kẻ chết sống lại và sống mãi mãi trừ ra Chúa Giê-xu Cơ Đốc. Kinh Thánh gọi Ngài là “trái đầu mùa của những kẻ ngủ (chết)”. Có lẽ đến đây bạn sẽ thắc mắc là chúng ta sống lại như thế nào? Thân xác chết đi, trở về với cát bụi thì làm sao sống lại?Than thể đó sẽ ra sao? Kinh Thánh cũng cho biết rằng thân thể chúng ta khi sống lại là thân thể vinh quang, thiêng liêng và kỳ diệu: “Thân thể đã gieo ra là hư nát mà sống lại là không hay hư nát; đã gieo ra là nhục mà sống lại là vinh; đã gieo ra là thể huyết khí mà sống lại là thể thiêng liêng. Nếu có thể huyết khí thì cũng có thể thiêng liêng” (I Côr. 15:42-44). Sự phục sinh của Chúa Giê-xu mang lại cho chúng ta một niềm hy vọng sống: Ngài đã sống lại và những kẻ tin Ngài chắc chắn sẽ được sống lại để hưởng phước hạnh khi Chúa trở lại. Chính Chúa Giê-xu đã phán “25Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. 26 Còn ai sống và tin Ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?” (Giăng 11:25-26).

 

Cuối cùng, sự phục sinh của Chúa Giê-xu đã trả lời một cách dứt khoát cho những nghi vấn quan trọng của con người xưa nay, rằng: Thiên Chúa thực hữu, Ngài là Đấng Toàn Năng; chết không phải là hết, đời sau là một thực tại, không còn nghi ngờ gì nữa! Sau khi chết, con người sẽ sống lại để được ban thưởng trong Nước thiên đàng phước hạnh hoặc bị trừng phạt nơi Hỏa ngục khổ đau tùy theo công việc mình làm lúc còn sống, như Kinh Thánh chép “Ai đã làm lành thì sống lại để được sống, ai đã làm dữ thì sống lại để bị xét đoán.” (Giăng 5:29)

 

*Nếu tội lỗi đã phá vỡ mối tương giao giữa con người và Thiên Chúa thì sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu Cơ Đốc đã tái lập “mối quan hệ bình thường”, thiết lập mối giao hảo giữa Trời và Người. Sự chết của Chúa đóng vai trò tẩy rửa, công chính hoá nhân loại và sự sống lại của Chúa đem lại cho con người niềm hy vọng sống

 

Thưa bạn đọc thân mến, sự cứu rỗi trong Danh Chúa Giê-xu Cơ Đốc là một ơn Thánh sủng, là quà tặng của Thiên Chúa ban cho để nhân loại nhờ đó nhận được sự sống đời đời và điều kiện duy nhất để bạn nhận được sự cứu rỗi là mở lòng ra tiếp nhận Chúa Giê-xu Cơ Đốc là Cứu Chúa của mình, là Đấng đã chịu chết vì bạn và đã sống lại để bạn nhận được sự sống và sự sống vĩnh cửu.

 

Chúng tôi tha thiết khuyên mời bạn hãy tin nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình để tội được tha, linh hồn được cứu khỏi sự đoán phạt và được hưởng sự sống phong phú từ Chúa Phục Sinh ngay hôm nay. Lời Chúa hứa “Vậy nếu miệng ngươi xưng Đức Chúa Jêsus ra và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ kẻ chết sống lại, thì ngươi sẽ được cứu.” (Rô-ma 10:9).

 

Nếu bạn muốn đặt niềm tin của mình nơi Chúa Phục sinh, xin hãy cầu nguyện theo những lời sau đây:

 

Kính lạy Chúa Giê-xu là Thiên Chúa đã yêu thương con, chịu chết trên thập tự giá để chuộc tội cho con và đã sống lại để ban cho con niềm hy vọng sống. Nhưng bấy lâu nay con chưa nhận biết Ngài và chưa đặt niềm tin nơi Ngài. Bây giờ con quyết định tin nhận Chúa và mời Chúa ngự vào lòng con. Xin Chúa tha tội cho con, biến đổi cuộc đời con và giúp con bước đi theo Chúa trọn đời. Con thành tâm cầu nguyện trong Danh Chúa Giê-xu. A-men!

Lòng Nóng Nảy

Lòng Nóng Nảy

 

Kinh Thánh: Lu-ca 24:13-35
Câu gốc: Lu-ca 24:32
“Hai người nói cùng nhau rằng: Khi nãy đi đường, Ngài nói cùng chúng ta và cắt nghĩa Kinh Thánh, lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao?”

Câu chuyện về hai môn đồ đi về làng Em-ma-út rất quen thuộc đối với chúng ta, nó được phổ thành thơ, thành nhạc, thành những vở kịch rất xúc động. Họ thuộc loại người mang tính khí nóng nảy. Cụm từ “lòng nóng nảy” mang ý nghĩa của hai phương diện: tích cực và tiêu cực. Thái độ nóng nảy tiêu cực của họ xuất hiện khi họ chưa gặp Chúa Phục sinh. Thái độ và hành động nóng nảy của họ diễn biến qua việc: đàm luận cách nỏng nảy việc vừa xảy ra “nóng hổi”. Hai người thất vọng vì Chúa Giê-xu đã từ chối việc giải cứu dân tộc Y-sơ-ra-ên trong ngôi vị vua của đời này (câu 21). Họ cãi lẫy nhau về những sự kiện đã xảy ra cho Chúa Giê-xu. Họ trách móc các thầy tế lễ, các quan đề hình đã đóng đinh Chúa. Sự buồn bực cách nóng nảy khiến họ bị che khuất không nhìn thấy Chúa Phục sinh đang đồng hành với họ, đến nổi họ trách móc Chúa: “Có phải chỉ ngươi là khách lạ, ở thành Giê-ru-sa-lem không hay việc đã xảy đến tại đó cách mấy bữa rày sao?” (câu 18). Sự thất vọng, buồn giận, sợ hãi của họ đã lên đến đỉnh điểm nên họ bỏ trốn khỏi Giê-ru-sa-lem, về quê và mong ước ẩn mình, sống với đời sống cũ, công việc cũ… Lý do mà hai môn đồ có thái độ, hành động nóng nảy tiêu cực vì họ quên Lời Chúa! Rõ ràng, dầu Thiên sứ báo rằng: “Chúa Giê-xu đã sống lại…” nhưng vì họ chưa thấy hoặc chưa gặp Chúa nên còn thắc mắc, mơ hồ và cãi lẫy…

Thái độ “nóng nảy” tiêu cực đó vẫn còn xảy ra trong vòng con cái Chúa, khiến Chúa Phục sinh không thể hiện hữu, không thể dự phần trong cuộc đời chúng ta; có những quan điểm khác nhau khiến họ cãi lẫy, giận hờn, rồi bỏ lỡ công việc nhà Chúa. Có những lời đoán xét, trách móc, tranh cạnh làm bất hoà, mất sự hiệp một trong dân Chúa và thân thể của Đấng Christ bị chia cắt. Lý do sâu xa nhất vẫn là quên Lời Chúa, khi quên Lời Chúa dễ lắm làm chúng ta sa sút đức tin, thất vọng, làm mất phương hướng thiêng liêng và thiên về lối sống theo lý trí, xác thịt. Những kẻ không tin Lời Chúa và lời các Đấng tiên tri được Chúa liệt vào hàng kẻ dại dột (Lu-ca 24:25). Cơ Đốc nhân ngày nay đang đối diện với muôn vàn sự kiện đang diễn ra, có những điều bất lợi, nguy hiểm cho đức tin chúng ta, nhưng xin Chúa cho đời sống chúng ta luôn nóng nảy trong sự cầu nguyện với Chúa, nóng nảy chờ đợi ý muốn Chúa và nóng nảy trong sự thờ phượng, phục vụ Ngài.

Chúa quá yêu hai môn đồ thất vọng, ngã lòng này và Chúa đã dùng Lời Kinh Thánh giải bày về ý nghĩa sự chết và sự sống lại của Ngài. Hơn thế nữa, Chúa còn chung dự bữa ăn cùng họ và chính các mối thông công này giúp mắt họ được mở ra và nhìn biết Chúa Giê-xu – Đấng Phục sinh. Ngày nay, không thiếu những tín hữu thất vọng điều gì đó, ngã lòng trong sự tin kính… Chúa muốn chúng ta học theo gương Chúa, dùng lời ngọt ngào, yêu thương của Chúa và hãy thông công cùng họ trong mối quan hệ sinh hoạt hằng ngày để nâng đỡ và cho họ thấy tình yêu thật trong mối liên hệ Cơ Đốc nhân. Sự sống phục sinh của Chúa được bày tỏ qua nếp sống, qua sinh hoạt của chúng ta hằng ngày bằng chính tình yêu Chúa và sự quan tâm lo tưởng cho nhau. Trong Hê-bơ-rơ 10:25, Chúa muốn chúng ta quan tâm đến nhau, khuyên nhủ nhau trong những ngày cuối cùng này.

Nhờ Lời Chúa giảng dạy, nhờ bữa ăn thông công gần gũi, quen thuộc mà họ nhận biết rõ Chúa Giê-xu đã phục sinh. Khi mắt thuộc linh họ mở ra, hiểu rõ sự hy sinh của Chúa và sự sống lại của Ngài, thì một thái độ tích cực của “lòng nóng cháy” thiêu đốt họ. Hai môn đồ khích lệ nhau bằng một câu hỏi: “Lòng chúng ta há chẳng nóng nảy sao?” và việc nóng nảy của lòng họ không dừng lại ở điều họ hiểu, họ nhận ra mà bày tỏ qua thái độ và việc làm của họ.

Cụm từ “nội giờ đó” và “liền đứng dậy” mô tả con người nóng nảy, nhưng sự nóng nảy gặp Chúa Phục sinh khác hẳn với sự nóng nảy bực bội, thất vọng, cãi lẫy. “Nội giờ đó”, lúc bấy giờ đã quá “giờ xế chiều hầu tối”, nhưng họ không chần chờ, không trễ nãi mà liền quay lại Giê-ru-sa-lem. “Nội giờ đó” có nghĩa là ngay tức khắc, nói lên quyết định phải làm. Hành động của họ được mô tả là: “liền đứng dậy” trở lại nơi đã xảy ra các sự kiện về Chúa Giê-xu. Mục đích họ trở lại để gặp các môn đồ, các Sứ đồ đang nhóm lại. Mục đích của họ là để thuật lại phước hạnh mà họ đã gặp được Chúa Phục sinh, sự trải nghiệm về sự đồng hành với Chúa và sự thông công bữa ăn với Chúa Phục sinh khiến họ không nín lặng được! Chia sẻ những từng trải, những phước hạnh là điều cần có trong đời sống chúng ta để chứng thực sự hiện hữu, quyền năng Chúa và tình yêu bất biến của Ngài trong đời sống chúng ta, nhằm khích lệ, nâng đỡ lẫn nhau, và tôn vinh, chúc tụng Chúa.

Cụm từ “liền đứng dậy” nhắc chúng ta nhớ đến câu chuyện “người con trai hoang đàng” bỏ nhà cha đã lâu, khi nhận biết tội lỗi, sự sai trật của mình, anh liền đứng dậy trở về nhà cha, xưng tội và xin cha tha thứ. Chúng ta không trì hoãn khi nhận biết Chúa Giê-xu chúng ta là Đấng Phục sinh, Đấng yêu chúng ta đã phó mạng sống Ngài vì tội lỗi chúng ta. Ngài không chết luôn như những giáo chủ khác, nhưng Ngài đã sống lại vinh hiển để đem đến cho chúng ta hy vọng của sự sống và sự sống đời đời. Chúng ta hãy đứng dậy liền ngay chỗ chúng ta vấp ngã, yếu đuối để trở về với tình yêu Chúa. Nếu chúng ta đánh mất tình yêu Chúa ban đầu như Hội Thánh Ê-phê-sô thì hãy trở lại, xây dựng lại mối liên hệ mật thiết với Chúa. Chúa Giê-xu vui lòng khi chúng ta có tấm lòng nóng cháy về công việc Chúa; và Ngài chẳng vui lòng khi tình trạng chúng ta giống Hội Thánh Lao-đi-xê, Chúa sẽ nhả chúng ta – không tiếp nhận chúng ta.

Tấm lòng nóng nảy của hai môn đồ xưa nhận được phước hạnh gì? Họ gặp Chúa trực tiếp sống lại trong buổi thờ phượng sau đó (Lu-ca 24:36-49). Khi họ ở tại Giê-ru-sa-lem, họ tiếp tục chứng kiến sự thăng thiên của Ngài (Công Vụ 1). Rồi họ được đầy dẫy Đức Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần (Công Vụ 2). Ngoài ra, họ còn được trở nên chứng nhân của Đức Chúa Giê- xu, khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem như mạng lệnh Ngài truyền (Công Vụ 1:8).

Thật phước hạnh biết bao khi họ quyết định sốt sắng nóng nảy trở lại Giê-ru-sa-lem thay vì trốn chạy về làng cũ, việc cũ… Như những que củi dù đang cháy mà rút ra khỏi bếp riêng lẻ sẽ mau chóng tàn lụi! Nhưng dầu là que củi còn tươi nhưng gần bếp lửa nóng cháy sẽ được bốc cháy. Hê-bơ-rơ 10:25 nhắc nhở mỗi chúng ta “chớ bỏ sự nhóm lại…”, chính sự nhóm lại giúp chúng ta gắn bó với Lời Chúa, gắn kết chúng ta trong mối thông công với dân Chúa. Ngoài ra, sự chia sẻ phước hạnh, từng trải của các con cái Chúa đem đến sự khích lệ, sự sống động của niềm tin cho nhau. Khi ở trong Chúa và Lời Chúa, chúng ta sẽ chiêm ngưỡng sự mầu nhiệm về các lẽ đạo Chân Thần rõ nét, và trải nghiệm Lẽ Thật đó trong đời sống, để chúng ta trở nên chứng nhân của Chúa Giê-xu hầu đem nhiều người trở lại thờ phượng Chúa. Ước mong mỗi ngày nhà Chúa có thêm nhiều tấm lòng nóng nảy, bàn tay nóng nảy, môi miệng nóng nảy thuật ơn cứu rỗi và phục vụ trong nhà Chúa.

Đừng Khóc và Hãy Khóc

Đừng Khóc và Hãy Khóc

Kinh Thánh: Lu-ca 23:26-31
Câu gốc: Lu-ca 23:28b

Lời Chúa dạy trong thư Rô-ma 12:15 rằng: “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc”. Khóc hay cười đều là những cách biểu lộ tình cảm của con người. Buồn quá sẽ bật lên tiếng khóc, vui quá cũng khóc, những giọt nước mắt trào ra sẽ làm vơi đi những cảm xúc thái quá trong con người.

Trên đoạn đường từ tòa Phi-lát đến đồi Gô-gô-tha, Chúa Giê-xu bị đoàn dân mắng nhiếc, lên án, sỉ vả cùng với những ngọn roi quất vào thân thể. Hơn thế nữa, Ngài sẽ bị đóng đinh treo trên cây thập tự. Nỗi đau thể xác không bằng nỗi đau tâm linh khi Chúa thấy đoàn người vô tín đã từng ăn bánh Ngài ban, nay phản bội. Những môn đồ Chúa yêu cũng xa lìa và chối bỏ. Chỉ còn những phụ nữ đã từng được Chúa quan tâm, yêu thương, biến đổi họ… là tiếp tục theo Ngài. Họ khóc về Ngài, nhưng Chúa phán với họ: “Đừng khóc về ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi”.

1. Lời phán của Chúa Giê-xu nói lên tinh thần quên mình

Con người thường chỉ quan tâm đến chính mình, nên thường than vãn, khóc than về chính mình trước khó khăn, hoạn nạn, thử thách. Khi những người phụ nữ khóc về Chúa thì Ngài phán: “Đừng khóc về ta”, bằng một trực giác chúng ta thấy được tinh thần quên mình của Chúa Giê-xu. Ngài không dành lấy sự thương cảm cho riêng mình, mà quan tâm đến người khác: “Hãy khóc về chính mình các ngươi và con cái các ngươi”. Trong suốt cuộc đời của Chúa Giê-xu trên đất, Ngài luôn sống quên mình vì người khác. Tại vườn Ghết-sê-ma-nê, Chúa chiến đấu cầu nguyện trong sự cô đơn. Sau đó Chúa Giê-xu đã bảo vệ các sứ đồ khi phán rằng: “Hãy bắt ta và để cho họ đi”. Khi Chúa bị treo trên thập tự giá, Ngài lo nghĩ đến người mẹ về phần xác và gởi gắm cho Sứ đồ Giăng phụng dưỡng. Lúc sắp trút hơi thở cuối cùng trên thập tự giá, Chúa Giê-xu đã cầu nguyện cho những kẻ bắt bớ, hành hình mình rằng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc mình làm”.

Chúa Giê-xu phục vụ quên mình, còn chúng ta thì sao? Con người thường muốn người khác phục vụ mình hay quen đòi hỏi người khác lo cho mình, nhưng tinh thần của Chúa Giê-xu là phục vụ quên mình, Chúa phán trong trong Ma-thi-ơ 20:28 rằng: “Con người đến không phải để người ta hầu việc mình, song để mình hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người”.

Theo gương Chúa phục vụ quên mình, ngày nay chúng ta cần phục vụ với tinh thần dấn thân không hề đòi hỏi công giá hay báo đền ơn nghĩa!

2. Lời phán của Chúa Giê-xu nói lên tinh thần yêu dân tộc

Khi thấy những giọt lệ trên khuôn mặt của những người đàn bà Giê-ru-sa-lem khóc về Ngài, gợi lên trong tâm trí Chúa hình ảnh sự chết đang đe dọa kinh thành của họ, cho nên lời phán: “Đừng khóc về ta, song khóc về chính các ngươi” đây là một lời tiên tri về sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem.

Trước đó vài ngày, Đức Chúa Giê-xu dừng chân trên đồi Ô-li-ve và nhìn xuống kinh thành, Ngài đã tuôn tràn giọt lệ với lời kêu than thảm thương. Trong Phúc Âm Lu-ca 19:41-44 có chép: “Khi Đức Chúa Giê-xu đến gần thành thấy thì khóc về thành và phán rằng: Ước gì ít nữa là ngày nay, mày đã hiểu sự làm cho mày được bình an. Song hiện những sự ấy kín giấu nơi mắt mày, vì sẽ có ngày xảy đến cho mày, khi quân nghịch đào hố xung quanh mày, vây mày chặt bốn bề họ sẽ hủy hết thảy, mày và con cái ở giữa mày nữa, không để cho mày hòn đá này trên hòn đá kia, vì mày không biết mình đã được thăm viếng”.

Dầu Giê-ru-sa-lem đã cứng lòng đối với Chúa, nhưng với tình yêu thương dân tộc, Ngài đã khóc về Giê-ru-sa-lem. Khi nhìn thấy hình ảnh sụp đổ, tang tóc, đau thương… khiến Chúa Giê-xu phán: “Hỡi con gái thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc về ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi”.

Ngày nay, với lòng yêu đồng bào, yêu dân tộc, chúng ta có nhìn thấy những linh hồn đang tiến đến sự chết đời đời vì chối bỏ Chúa không? Chúng ta có nhìn thấy sự tối tăm của quyền lực bóng tối đang bao trùm đất nước, quê hương chúng ta không? Con người không đang sống quên mình như Chúa Giê-xu nhưng sống trong tinh thần vị kỷ, chỉ nghĩ đến lợi nhuận cá nhân mà pha trộn những chất độc hại trong thực phẩm, đồ gia dụng! Họ đang hủy diệt sự sống bằng những hành động độc ác. Con cái chúng ta, hậu tự chúng ta đang sống trong những nỗi lo sợ kẻ ác đang rình mò để cướp, hủy diệt sự sống thể xác lẫn tâm linh. Chúng ta hãy khóc với Chúa và tỉnh thức cầu nguyện thiết tha với Chúa để quê hương chúng ta, dân tộc chúng ta được thắng hơn những điều ác. Mỗi ngày xin Chúa cứu thêm nhiều người vào Hội Thánh, xin Chúa dùng đời sống của mỗi chúng ta đầy ơn, quyền của Chúa để đem ảnh hưởng của Tin Lành ra khắp chốn.

3. Lời phán của Chúa Giê-xu nói lên tinh thần quan tâm đến phụ nữ và trẻ em

Khi Chúa Giê-xu thi hành chức vụ trên đất, có nhiều phụ nữ liên quan đến cuộc đời Ngài. Ví dụ như: tin tức giáng sinh của Chúa được loan báo cho trinh nữ Ma-ri. Sự thương khó và sự chết của Chúa Giê-xu được các người đàn bà chứng kiến và than khóc. Tin mừng về sự phục sinh của Chúa được rao báo trước tiên cho Ma-ri Ma-đơ-len là người đàn bà trước kia bị quỷ ám được Chúa chữa lành…

Ngoài ra trong chức vụ Chúa Giê-xu, Ngài tiếp chuyện và cứu người đàn bà Sa-ma-ri (Giăng 4). Chúa tuyên bố tha tội cho người đàn bà phạm tội tà dâm (Giăng 8). Chúa kêu gọi con trai người đàn bà góa tại Na-in sống lại (Lu-ca 7:11-17). Chúa Giê-xu yêu thương Ma-ri và Ma-thê ở Bê-tha-ni (Giăng12:1-11).

Tại sao ở đây lời phán Chúa Giê-xu nói lên sự quan tâm đến những phụ nữ và trẻ con? Vì theo lịch sử cho thấy, phụ nữ và trẻ em chịu hoạn nạn nhiều nhất khi thành Giê-ru-sa-lem bị phá hủy. Sử gia Josephus đã ghi nhận cảnh tượng tướng Titus của La Mã đã triệt hạ Giê-ru-sa-lem năm 70 SC rằng: “Trước khi bị san bằng, thành Giê-ru-sa-lem đã bị bao vây cấm vận, đến nỗi dân trong thành bị chết đói, chết khát lên đến một triệu người. Thảm cảnh chồng trên thảm cảnh, nạn đói kém nuốt chửng nhà này đến nhà khác, các phòng đầy xác đàn bà và trẻ con chết đói, thậm chí những bà mẹ chứng kiến cảnh người ta ăn thịt con mình!”

Trên chặng đường thương khó của Chúa Giê-xu, những giọt lệ của những người đàn bà đã nói lên lòng tôn kính và thiện cảm đối với Ngài. Ngài thật xứng đáng nhận những điều đó nhưng Chúa thấu hiểu và cảm thông cho họ về số phận đau đớn nặng nề nhất sẽ đổ trên phái nữ là các bà mẹ, họ sẽ bị tổn thương vì con cái mình, nên Chúa phán: “Đừng khóc về ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi”.

Ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục cảm thông cho những hoàn cảnh bi thương của con cái Ngài và Chúa cũng muốn chúng ta cảm thông trước những hoàn cảnh bi thương của những người khác như nạn bạo hành phụ nữ và trẻ em, nạn mua bán phụ nữ và trẻ em hay nạn đối xử tệ hại đối với phụ nữ và trẻ em… vì chúng ta là môn đồ của Chúa Giê-xu.

4. Lời phán của Chúa Giê-xu bao hàm lời khuyên ăn năn tội

Câu 31 của Lu-ca 23 diễn tả hình ảnh đất nước Do Thái giống như “cây xanh” trong những năm Chúa Giê-xu hiện diện trên đất, chính lúc có cơ hội và ân phước, cây xanh phải kết quả. Nhưng dân tộc Do Thái đã chối bỏ Chúa Cứu Thế và trở nên “cây khô” chỉ xứng đáng cho lửa. Đã bao lần Chúa muốn nhóm dân Ngài lại nhưng họ không muốn. Khi kết án Chúa, chính họ đã tự kết tội mình.

Khi Đức Chúa Giê-xu phán: “Hỡi con gái thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc về ta, song khóc về chính mình các ngươi và về con cái các ngươi”, Chúa muốn nói rằng: “Đừng khóc về cảm xúc các ngươi dành cho ta, nhưng hãy khóc về chính tội lỗi các ngươi, hãy khóc về sự vô tín của dân thành các ngươi”. Chúa khao khát nơi họ những giọt lệ ăn năn, nhưng thật đáng tiếc, lịch sử ghi nhận dân Do Thái không chịu ăn năn. Lời thề của họ khi Phi-lát xử Đức Chúa Giê-xu vô tội thì họ lại xin “huyết của người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi” (Ma-thi-ơ 27:25). Lời thề độc đó đã được ứng nghiệm khi kinh thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ năm 70 SC. Quân La Mã đã tàn sát dân thành, cả đàn bà, trẻ con cũng bị giết. Sử gia Josephus chép “máu trên đường phố người ta lội đến mắt cá chân”. Thật khủng khiếp! Vì lòng vô tín của họ không ăn năn, nên phải nhận lấy hậu quả.

Chúa muốn chúng ta khóc về tội lỗi của mình và ăn năn, đồng thời Chúa cũng muốn chúng ta khóc về sự vô tín của những người chối bỏ, chống nghịch Chúa. Chúng ta vui mừng cảm tạ Chúa về tình yêu thương của Ngài đã dành cho chúng ta. Ngài chết để cứu chúng ta khỏi quyền lực của tội lỗi để chúng ta được trở về cùng Đức Chúa Trời. Chúa không muốn chúng ta khóc về Chúa, nhưng hãy khóc cho chính mình, gia đình mình và cho những người vô tín đang bị đùa đến sự chết. Hãy khóc! Mang một ý nghĩa sâu đậm trong tinh thần thương cảm lẫn trách nhiệm truyền giáo. Vì Đại Mạng Lệnh của Chúa là: “Hãy đi dạy dỗ muôn dân, hãy nhân danh Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh mà làm phép báp-têm cho họ và dạy họ giữ hết cả mọi điều mà ta đã truyền cho các ngươi” (Ma-thi-ơ 28:19,20).

Cắm Và Sạc

Cắm Và Sạc

Kinh Thánh: Cô-lô-se 1: 24-29
Câu gốc: Cô-lô-se 1:28

Chủ đề “Cắm và Sạc” của Uỷ Ban Thanh Thiếu Nhi năm 2017 khiến tôi chú ý, rất thiết thực với cuộc sống hiện đại; gợi cảm xúc và đầy ý nghĩa! “Cắm và Sạc” là cần thiết để phục vụ cho nhu cầu công nghệ thông tin, “cắm và sạc” cũng là nhu cầu bức thiết để đời sống tâm linh của Cơ Đốc nhân liên tục có được năng lượng, được hữu ích… Mùa hoa anh đào tại thành phố Đà Lạt chào đón khoá hội thảo trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Những chùm hoa anh đào hồng, trắng chuẩn bị nở rộ xen lẫn, biểu hiện cảnh quan tươi đẹp đầy sức sống. Loanh quanh đâu đó cũng có những chùm hoa bằng lăng tím cùng một số loài hoa khác cũng đua nhau khoe sắc… vì tất cả đang ở mùa Xuân.

Mùa Xuân đầy những vẻ đẹp tươi thắm, ấm áp… cũng tràn đầy những ước vọng và hy vọng cho toàn bộ những khởi điểm cho một năm, của cả một cuộc đời đang chờ đợi cho lứa tuổi thiếu niên.

Tham dự khoá hội thảo gồm nhiều thành phần: các anh chị đặc trách UB.TTN của Tổng Liên Hội, các quý đầy tớ Chúa phụ trách các khu vực của các Hội Thánh… là những người đang quan tâm, có tâm tình trong công tác giúp đỡ thế hệ trẻ cùng lớn lên trong niềm tin kính Chúa, sống vì Danh Chúa và ảnh hưởng cộng đồng. Đặc biệt diễn giả là những đầy tớ Chúa đang phục vụ trong mục vụ thanh thiếu nhi Tin Lành và có người đang giảng dạy tại trường đại học Fuller, Hoa Kỳ.

Khai mạc buổi hội thảo được bắt đầu bằng sự thờ phượng qua các bài biệt Thánh Ca đem hội chúng gần Chúa và đầy cảm xúc mới mẻ tuôn tràn để bắt đầu cho suốt chương trình hội thảo. Một hoạt động tạo sự gần gũi, yêu thương, quan tâm là những cái bắt tay, chúc mừng trong Danh Chúa và làm quen. Qua hoạt động đầu giờ đưa chúng tôi một nhận thức mới mẻ của người lãnh đạo thế hệ trẻ là những người phải có sự vui vẻ, hoà nhập, mở rộng quan hệ. Phân đoạn Kinh Thánh trong Xuất Ê-díp-tô Ký 18:13-27 xác định vai trò của người lãnh đạo không thể “ôm đồm” hết mọi việc, nhưng cần phải lắng nghe, khiêm nhường, nhìn thấy hạn chế của chính mình và cần sự hỗ trợ của nhiều người có ân tứ khác nhau trong công viẹc. Lãnh đạo không thể làm việc đơn độc, song cần nhiều cánh tay giúp đỡ, tư vấn, hiệp lực …vì “một con én không làm nên mùa Xuân”!

Một Hội Thánh không quan tâm đến người trẻ, không quan tâm đến đời sống tâm linh của thế hệ con em ngay bây giờ là Hội Thánh sẽ đi vào con đường “lão hoá” và không có người kế thừa! Trong lúc xã hội đang phát triển nhiều về các lãnh vực khoa học, kinh tế,… đồng thời cũng đang phát triển nhiều về tội ác và nhiều cạm bẫy tội lỗi. Người trẻ đang bị cám dỗ “thế gian hoá” và nguy cơ hư mất đời đời.

Một lý do để một ai đó được kêu gọi vào mục vụ thanh thiếu niên là lòng yêu thương, quan tâm và lo tưởng đến người trẻ (Cô-lô-se 1:28). Người trẻ là thành viên trong mỗi gia đình và những gia đình, vì Hội Thánh là một “gia đình của những gia đình”, họ phải cùng được lớn lên cùng gia đình và Hội Thánh. Người trẻ cũng cần nhận biết Chúa cách trọn vẹn và lẽ mầu nhiệm Chúa cũng phải được rao giảng cho chính họ. Phương pháp dạy bảo được đặt trên nền tảng Lời Chúa là Lời của sự sống, của sự khôn ngoan. Mục vụ của lãnh đạo thanh thiếu nhi là để giúp thế hệ trẻ nhận biết Đấng Christ rõ ràng (câu 29), phương tiện để phục vụ mục vụ này là lòng yêu thương chân tình trong công tác phục vụ hết lòng và tin cậy vào sức toàn năng của Chúa giúp đỡ chiến đấu đạt đến sự chiến thắng.

Một mô hình mới mẻ để mở mang sự thu hút giới trẻ là công tác “nhận nuôi”. Nhận nuôi nói lên tình yêu thương, chấp nhận, công nhận, xác nhận thành viên đó là một phần của một “gia đình” thuộc những gia đình. Năm người trưởng thành đức tin nuôi dưỡng chăm sóc “một thành viên” thiếu niên luôn tốt hơn. Mô hình được xác nhận trong Kinh Thánh Ga-la-ti 3:26, chúng ta là con nuôi, con đồng kế tự của Chúa Giê-xu, và chúng ta phải có trách nhiệm như Chúa Giê-xu trong công tác nhận nuôi. “Nuôi dưỡng, đào tạo, uỷ quyền” cho giới trẻ với tư cách môn đệ đích thực của Chúa Giê-xu, đồng thời chúng ta chào đón họ tham gia đầy đủ vào đời sống cộng đồng của đức tin, Hội Thánh là gia đình của Đức Chúa Trời. Điều khác biệt trước nay là một anh chị lo cho nhiều thành viên cùng lúc. Chiến lược mới là càng nhiều người quan tâm, lo tưởng đến một người vẫn tốt hơn, vì người đó sẽ đón nhận nhiều tình thương hơn. Phương cách này sẽ giúp cho mọi người trong Hội Thánh cùng làm việc và sẻ chia công việc. Sự nhận nuôi không chỉ con em trong Hội Thánh nhưng cũng có thể một trẻ ngoài xã hội đang cần nhu cầu yêu thương, quan tâm.

Mục vụ Thanh Thiếu niên phải gắn liền với mục vụ của Hội Thánh như công tác mở mang, phát triển về đời sống thuộc linh và môn đệ hoá cho Đấng Christ. Tiếp nhận thế hệ trẻ như một chi thể của Hội Thánh và cho họ nhận biết chính họ quan trọng trong Hội Thánh, đồng thời giao việc và giúp họ hoà nhập vào Hội Thánh với tư cách một thành viên có đầy trách nhiệm.

Để hiểu rõ người trẻ, nhà lãnh đạo phải biết, phải hiểu tại sao gọi họ là “vị thành niên”? Là lứa tuổi xuất hiện nhiều sự chuyển tiếp về tâm sinh lý. Với những sự bắt đầu về sinh học và được kết thúc bằng văn hoá, nghĩa là sự hiểu biết chính mình và các trách nhiệm của lứa tuổi. Các nhà lãnh đạo thanh thiếu niên cũng cần nhận rõ về các tính cách, nhân cách của từng loại người, được phô bày qua 9 kiểu mẫu: 1) loại người kinh nghiệm Chúa qua thiên nhiên; 2) loại người kinh nghiệm Chúa qua việc nghiên cứu, học biết về Chúa (người lý trí); 3) loại người kinh nghiệm Chúa qua việc phục vụ và giúp đỡ người khác (người phục vụ); 4) loại người kinh nghiệm Chúa qua truyền thống từ xa xưa (truyền thống và lễ nghi); 5) loại người kinh nghiệm Chúa qua những điều giản dị và làm việc chăm chỉ (người khổ hạnh); 6) loại ngươi kinh nghiệm Chúa bằng cách ở trong sự hiện diện của Đấng Christ (người trầm tư); 7) loại người kinh nghiệm Chúa qua việc đấu tranh cho công lý và đem những giá trị của nước Trời vào xã hội (nhà hoạt động); 8) loại người kinh nghiệm Chúa qua cái đẹp và các giác quan (người cảm xúc); 9) loại người kinh nghiệm Chúa qua những điều mầu nhiệm và sự ca ngợi (người nhiệt huyết). Hiểu rõ tâm sinh lý và nhân cách sẽ giúp người lãnh đạo hướng các em đến sự thờ phượng và kinh nghiệm Chúa tốt đẹp hơn.

Khoá hội thảo có nhiều thời gian để suy gẫm Lời Chúa qua các bài tĩnh nguyện trong Giăng 13 và Giăng 21, Xuất 18… Cánh đồng về công tác thanh thiếu niên quá rộng lớn đang cần nhiều con gặt, đang cần những nhà lãnh đạo thanh thiếu niên yêu Chúa, yêu thế hệ trẻ dấn thân vào mục vụ thanh thiếu niên. Các đầy tớ Chúa có cơ hội nhìn lại chính mình trong vai trò lãnh đạo: Tôi là một lãnh đạo vững chắc đẹp lòng Chúa hay là một lãnh đạo không vững chắc, thiếu tình thương, thiếu hiệp nhất.. không đẹp lòng Chúa? Một sơ đồ tóm tắt về hai con người lãnh đạo tốt và xấu để nhắc nhở từng nhà lãnh đạo mục vụ thanh thiếu niên khi làm công việc cũng như khi làm công tác tìm nhân sự cộng tác cho mục vụ này.

Một lãnh đạo vững chắc Một lãnh đạo không vững chắc
Khuyến khích những nỗ lực của người khác Phá hoại những nỗ lực của ngừoi khác
Chỉ ra những điểm mạnh của người khác Chú ý những lỗi lầm của người khác
Bỏ qua những sai sót Sử dụng những sai sót của người khác để làm vũ khí
Sẵn sàng thừa nhận những sai lầm của mình Che giấu và biện minh cho những sai lầm
Trao sự tín nhiệm cho người khác Đòi hỏi hoặc lôi kéo sự tín nhiệm
Vui mừng khi người khác thành công Ghen tỵ với thành công của người khác
Thích thú khi người khác làm điều gì đó tốt hơn Dễ bị đe doạ
Sẵn sàng mạo hiểm để cải thiện Chọn cách an toàn để giữ lại vị trí
Thoả lòng khi ẩn mình Đòi hỏi người khác chú ý
Nhanh chóng xây dựng đội hình Muốn làm việc độc lập

Buổi hội thảo được kết thúc qua thì giờ tâm tình các trải nghiệm trong công tác lãnh vực thanh thiếu niên của các đầy tớ Chúa. Trước mắt đầy những thách thức khó khăn cho cánh đồng lúa “Thanh Thiếu Niên” tại Việt Nam, nhưng được lệ bởi Lời Chúa “Các ngươi đừng sợ vì Ta hằng ở cùng các ngươi luôn” (Giô-suê 1:9), (Ma-thi-ơ 28:20), (Giăng 16:33), (Giăng 15:11).

Lời cầu nguyện của một đầy tớ Chúa đầy cảm xúc, nhiệt huyết dành cho thế hệ trẻ khiến mọi lòng oà vỡ… mọi lưỡi đồng thanh: “Xin Chúa sai dùng con để giúp cho thế hệ trẻ luôn được “Cắm và Sạc” trong chính dòng huyết Chúa! Dòng huyết của sự yêu thương, cứu rỗi… dầu đầy hi sinh thống khổ nhưng là năng quyền sự đắc thắng!” Mọi sự trang bị để rồi không phải dừng lại sau buổi hội thảo nhưng tiếp bước đi và hành động cho công tác cứu người trẻ và môn đồ hoá thế hệ trẻ

Dưỡng linh – Tiếng Gà Gáy

Dưỡng linh – Tiếng Gà Gáy

Kinh Thánh: Lu-ca 22: 34-62
Câu gốc: Lu-ca 22: 61-62

“Chúa xây mặt lại ngó Phi-e-rơ. Phi-e-rơ nhớ lại lời Chúa đã phán cùng mình rằng:
Hôm nay trước khi gà chưa gáy, ngươi sẽ chối ta ba lần; rồi đi ra ngoài, khóc lóc thảm thiết”.

“Ò…ó…o!” Tiếng gà gáy làm tôi tỉnh thức, tôi sực nhớ sáng nay mùng Một Tết Đinh Dậu 2017. Thường thì tôi được đánh thức bởi chiếc điện thoại báo thức. Nhưng hôm nay lại là tiếng gà gáy! “Tiếng gà gáy” liên quan đến năm Đinh Dậu! Tiếng gà gáy nhắc tôi nhớ đến thời điểm Chúa chịu thương khó mà môn đồ Ngài yêu không chịu tỉnh thức khiến ông sa ngã, phản Chúa. Lẽ ra, nhân ngày nghỉ, tôi có thể “nướng” thêm một chút trong giấc ngủ, nhưng nhớ đến câu chuyện “gà gáy” nên tôi vùng dậy để cùng tỉnh nguyện tương giao với Chúa.

Đặc trưng của tiếng gà gáy là gì? Có thể tương đối giống nhau về âm sắc, song cường độ của âm thanh tuỳ thuộc vào sức lực mạnh yếu của con gà. Hình ảnh con gà gáy vào bình minh rất đẹp: đầu ngất cao, miệng to, hai cánh giương cao đập mạnh, hai chân dang rộng đủ vững chắc… tiếng gà gáy không thay đổi bởi thời gian, xưa cũng như nay gà luôn gáy vào buổi sáng.

Khi nhà tôi còn làm quản nhiệm tại một Hội Thánh, cứ sau những tiếng gà gáy sáng là những hồi chuông nhà thờ được gióng lên, con cái Chúa trong khu vực tỉnh thức, tề tựu trong ngôi Thánh đường để cầu nguyện tương giao với Chúa. Đây là thì giờ chúng tôi được trò chuyện với Chúa và được nhắc nhở để nhớ đến nhau và cầu thay cho nhau. Thật là thì giờ phước hạnh của con cái Chúa và Hội Thánh Ngài. Bởi sự cầu nguyện mà Hội Thánh tại đây mỗi ngày phát triển, mở mang rất nhiều… dù lúc ấy là thời kỳ Tin Lành gặp nhiều trở ngại.

Lúc nhỏ, khi còn đi học, cứ mỗi buổi sáng chúng tôi được ba tôi đến cạnh giường để đánh thức chúng tôi dậy để ôn lại bài học trước khi đến trường. Có những hôm ba tôi kiên nhẫn gọi chúng tôi nhiều lần đến khi chúng tôi chịu vùng dậy. Cũng có hôm vì không kiên nhẫn, ba tôi cũng dùng roi yêu thương để nhắc nhở chúng tôi. Hình ảnh ba tôi đánh thức chúng tôi dậy khiến tôi liên tưởng đến hình ảnh Chúa yêu thương tỉnh thức các môn đồ Chúa trong vườn Ghết-sê-ma-nê. Lời Chúa nhắc nhỡ “các ngươi ở đây và tỉnh thức với ta” (Ma-thi-ơ 26: 38). Khi thấy các môn đồ cứ mãi mê trong giấc ngủ… Chúa kiên nhẫn thức tỉnh họ bằng một lời cảnh báo: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, kẻo các ngươi sa vào chước cám dỗ, tâm thần thì muốn lắm, mà xác thịt thì yếu đuối” (Ma-thi-ơ 26:41). Chúa khích lệ các môn tỉnh thức vì Chúa biết sẽ có nhiều cám dỗ, nhiều sự tấn công của các thế lực thế gian và thế lực của sự tối tăm. Chúa nhìn biết loài người yếu đuối, Chúa biết chúng ta không thể đắc thắng mọi sự đó bởi sức riêng, bởi ý riêng, bởi khả năng hạn chế của chúng ta. Nên Chúa muốn chúng ta tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giê-xu cũng là con người, Ngài cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, nên Chúa phán: “Hãy tỉnh thức với ta…” Chúng ta thất bại vì thiếu tỉnh thức và cầu nguyện, nhưng Chúa đắc thắng vì Ngài chiến đấu cầu nguyện trong tinh thần tỉnh thức.

Học theo gương Chúa, chúng tôi cũng luôn tỉnh thức nhắc nhở các con trong sự tương giao với Chúa, dầu các con có những thời gian sống xa nhà để đi học, nhưng điều chúng tôi luôn quan tâm và nhắc nhở các con là phải giữ thì giờ đọc, học Lời Chúa và cầu nguyện với Chúa. Chúa cho gia đình chúng tôi có ba người con: hai trai, một gái. Cô gái út đã có gia đình và con tôi được kêu gọi trong chức vụ hầu việc Chúa với chồng. Lòng tôi hằng ao ước các con tôi đều được bước vào chức vụ hầu việc Chúa trọn thời gian. Cứ hằng năm, chúng tôi có cơ hội nhắc lại ơn cứu sống toàn gia đình tại đèo Cù Mông, để nhớ lại ơn thương xót của Chúa và mục đích Chúa cho còn sống là để hầu việc Chúa. Biết bao năm mơ ước để các con tự nguyện dấn thân bước vào chức vụ, có những lúc chúng nói với tôi rằng: “Con vẫn chưa nghe Chúa gọi, mà con cứ chỉ nghe mẹ gọi!” Nó lại nói: “Mẹ gọi mà Chúa không gọi thì con lo lắm, sợ lắm!” Bẵng đi rất lâu, tôi không nhắc đến sự kêu gọi vào chức vụ hầu việc Chúa nữa, thì gần đây chính con tôi lại được nghe tiếng Chúa gọi. Chúng tôi quá bàng hoàng lẫn vui sướng khi con tôi có quyết định dâng mình hầu việc Chúa. Khi biết được quyết định của con, tâm lòng tôi lẫn lộn sự mừng vui và cảm xúc, miệng cười nhưng những giọt nước mắt lại rơi.

Con tôi tâm sự những thách thức con đối diện khi quyết định đi theo tiếng gọi của Chúa. Tôi khích lệ và cầu nguyện cho con với những lời động viên. Con tôi tiếp rằng: “Mẹ ơi, bấy lâu nay con chần chờ, nhưng Chúa thức tỉnh con trong Lời Chúa rằng: tất cả mọi công việc của đời này chỉ dành cho lửa! Và con quyết định phục vụ Chúa trọn thời gian, vợ con cũng chính là người giúp con thực hiện sự đáp ứng này mẹ à”.

Vâng, con trai tôi đã trải qua thời kỳ giống Phi-e-rơ lúc trong vườn Ghết-sê-ma-nê, ông ngủ! Con trai tôi cũng đã ngủ trong công việc trần gian! Nhưng nay, Lời Chúa đã thức tỉnh con trai tôi như Chúa đã dùng “tiếng gà gáy” tỉnh thức Phi-e-rơ, Phi-e-rơ ăn năn cách đắng cay về lỗi lầm của mình và được Chúa phục hồi. Lại cũng có môn đồ phạm tội phản bội Chúa Giê-xu, đó là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Ông cũng “sám hối” nhận biết tội lỗi mình, đem bạc đi trả lại cho nhà hội… nhưng ông không thật sự ăn năn, tức không chịu từ bỏ con người cũ, từ bỏ đường lối cũ… ông tiếp tục đi trong bóng tối và tìm đến sự tự sát.

Điều tôi thường thắc mắc khi còn nhỏ: tại sao Chúa dùng “tiếng gà gáy” để thức tỉnh Phi-e-rơ mà không thức tỉnh Giu-đa Ích-ca-ri-ốt? Điều chắc chắn Chúa yêu cả hai môn đồ. Ngài nhiều lần nhắc nhở Giu-đa hãy từ bỏ ý đồ phản Chúa lúc Chúa rửa chân và trao bánh cho ông. Ông thật là môn đồ không thật sự yêu Chúa, còn Phi-e-rơ là môn đồ thật tâm yêu Chúa, ông từng tuyên bố: “Dầu ai vấp phạm vì cớ Chúa nhưng ông sẽ không bỏ Chúa” (Ma-thi-ơ 26:33). Dầu vậy, ông quên rằng ông cũng yếu đuối và giới hạn… Điều ông lẽ ra phải nói với Chúa rằng: “Chúa ôi, con cũng là người yếu đuối, xin Chúa cho con không vấp phạm và cho con luôn vững tin nơi Chúa”.

“Tiếng gà gáy” là tiếng kêu tỉnh thức mỗi đời sống Cơ Đốc nhân, khi được thức tỉnh chúng ta hãy nhớ lại giao ước Chúa giao và cũng xác quyết tình yêu của chúng ta đối với Chúa như Phi-e-rơ: “Lạy Chúa, Chúa biết rằng con yêu Chúa” (Giăng 21:15-17). Chúa giao việc cho Phi-e-rơ sau ba lần xác quyết tình yêu Chúa khi ông kinh nghiệm tình yêu Chúa với tình yêu “Agape” tức tình yêu cao quý – tình yêu hy sinh và tình yêu mặc dầu mà Chúa đã dành cho chính ông.

Năm mới, năm Đinh Dậu, “tiếng gà gáy” luôn nhắc nhớ chúng ta về tình yêu cao quý của Chúa – Đấng Thánh Khiết đã từ bỏ mình đến thế gian, yêu tội nhân và cứu rỗi họ. “Tiếng gà gáy” nhắc chúng ta về sự hy sinh của Ngài đã đổ huyết chuộc tội chúng ta. Nhớ ơn cứu chuộc của Chúa, chúng ta dốc đổ sức lực, thì giờ của mình để cộng tác phục vụ Chúa trong nơi mà Chúa đặt để… và hãy nhìn lại chính mình để mỗi ngày nhờ Lời Chúa giúp chỉnh sửa chính mình và tin chắc rằng Chúa luôn yêu chúng ta, phục hồi chúng ta và Ngài luôn ước ao sử dụng cuộc đời chúng ta cho mục đích của vương quốc Ngài.

CHIẾU SÁNG

CHIẾU SÁNG

 

“Một ngày ít ly rượu, gần một gói thuốc lá, chẳng bao nhiêu đồng, vì là loại rẻ tiền thôi. Chừng ấy rượu sao mình đi không vững, muốn run lên rồi – à, vì mình đói! Thôi kệ, chẳng có ai thương mình, mình cứ làm điều mình thích, mình ăn đỡ chén cơm nguội; ồ, cơm dỡ quá! Thôi mình đi ngủ, dù sao nhà tình thương của nhà thờ Tin Lành cũng là chỗ nương náu cho mình”.

“Nghĩ cũng buồn, mình đã thiếu nhiều thứ, lại thiếu cái tính thành thật, và mang theo căn bệnh mà nhiều người ghê sợ, nên ai cũng muốn né tránh. Người ta tránh cũng do mình thôi; vợ con cũng có như ai – nhưng chẳng ai thấy được họ, vì con người như vậy nên chẳng ai muốn ở cùng”.

“Tôi cũng có lương tâm, cũng biết suy nghĩ như ai, nhưng nay tôi rất cô đơn; tôi cũng chẳng muốn yêu cuộc sống này nữa, thôi cứ cho nó trôi theo những ham muốn xác thịt cho thỏa cái dạ của nó. Nhưng hôm nay tôi không thể đi; tôi đói và khát. Người ta ở quanh tôi cũng tốt bụng. Người ta cho chút này chút kia, nhưng bây giờ tôi bê bết – ‘bê bết’ thế này ai mà cảm thương cho”.

Thế nhưng có một người, một người mà hay bị tôi lừa nhất. Mà cũng hay thật! Biết mình xạo lắm chứ, mà cũng hay hỏi thăm nhắc nhở, cũng cho cái này cái kia, cũng dành cho nụ cười ân cần và lời trách cứ yêu thương. Có ai vậy chứ, biết mình vậy mà cũng tốt bụng cho được?

“Mà chi, cái ánh sáng thập tự đỏ đỏ kia, ánh sáng ấy biểu thị cho tình yêu hay sao đó! Mỗi tối được thắp lên làm mình thấy ấm cái bụng. Người ấy cứ hay đi ra vô đó, và bởi Chúa của người đó thờ mà người đó mới yêu thương được mình thì phải?”

“Có hôm tôi không dậy được, chẳng đi lại được, thở cũng không nổi, hai mắt vàng, da tôi sạm đen, phải tiểu tiện một chỗ; ai mà chịu nổi, chắc có Chúa Giê-xu ấy. Nghĩ vậy thôi chứ ai dám mong. Thế mà, đang mê mệt thì nghe tiếng gọi hỏi thăm. À, lại là người đó, lại đến giúp đỡ mình, không la rầy, không hất hủi, nhưng ân cần, nhẹ nhàng giúp đỡ tôi và kêu gọi vài người đến phụ giúp. Trong cơn đau, tôi cảm nhận được tình thương trong lời cầu nguyện, trong khi tôi được lau mặt, được rửa sạch và băng bó vết thương, khi được nuốt những muỗng cháo ngon lành. Dù ai càm ràm gì chứ người đó không càm ràm mình. Người đó sợ mình qua đời, sợ linh hồn mình không được cứu. Cứ vội vàng tìm cách để mình được phục hồi sức lực. Mà không phải chỉ một hai ngày, nhưng là một hai tuần. Người đó rất bận rộn nhưng vẫn dành cho tôi một sự quan tâm đặc biệt. Người đó chẳng phải mẹ, hay người thân trong gia đình, cũng chẳng phải họ hàng gì – những người này bỏ tôi rồi; bây giờ tôi chết chắc gì họ đến. Người đã đến với tôi đó là đầy tớ của Chúa Giê-xu”.

Có một người đang trải qua và tự trách mình yếu kém là thế, cùng với niềm hy vọng được bắt nguồn từ sự chấp nhận của một người đã nhận lấy tình yêu Đấng Christ. Nhưng còn chúng ta thì sao?

Nhìn người kia có thể ai cũng nghĩ ông ấy là một người có tội, một người đáng bị bỏ, đáng ghét nhất của xã hội. Mà thử nghĩ xem nếu ông ấy giàu có, đẹp đẽ, học thức, thì chắc ông ấy sẽ có nhiều người viếng thăm, an ủi, vỗ về, chăm sóc. Tật xấu ông ấy phô bày ai cũng thấy, ngược lại những người khác chưa chắc tốt hơn bao nhiêu vì ai biết rõ được ai đâu. Nhưng trước mặt Chúa hết thảy đều gớm ghê và cần được tha thứ.

Chúa Giê-xu phải chăng đã cứu tôi và bạn vì chúng ta không đến nỗi quá tệ như người kia, chúng ta tốt hơn, đi nhà thờ với bộ đồ sáng bóng, Kinh Thánh, Thánh ca đầy đủ, với lời cầu nguyện suôn sẻ, và Chúa yêu điều đó phải không? Bởi Ngài thích vậy nên ta càng tỏ ra tốt để Ngài vui, đúng không?

Đúng, Chúa đã yêu, nhưng không phải yêu con người tin kính bề ngoài đó đâu, nhưng Ngài thương yêu con người yếu đuối, lỗi lầm giấu kín bên trong kia. Ngài đã giáng sinh để chết vì con người xấu xa đó. Ngài không thích con người giả bộ tin kính, yêu thương. Ngài muốn chúng ta đến gần Ngài với con người thật của chúng ta. Ngài vui vì một con người được biến đổi từ người không đáng yêu thành người đáng yêu. Liệu chúng ta – những người đã tin Chúa Giê-xu – thì thế nào? Chúng ta đã thật sự được huyết Chúa lột bỏ con người xấu xa và được đổi mới? Hay tội lỗi chúng ta được cất giấu kỹ hơn, tinh vi hơn và học yêu thương chỉ vì bổn phận với một con người thuộc linh bê bết giấu kín?

Chúa muốn cứu chúng ta thoát khỏi nỗi sợ hãi khi đối diện với chính mình; Ngài muốn giải phóng chúng ta khỏi điều đó. Và chúng ta sẽ thật sự được biến đổi khi hạ mình để tia sáng của lẽ thật soi rọi qua từng ngõ ngách giấu kín bên trong, và ánh sáng của chân lý sẽ gội rửa chúng ta, khiến chúng ta được thanh tẩy và kết quả theo sau là chiếu ra ánh sáng tình yêu Đấng Christ.

“Cho nên có chép rằng: Ngươi đương ngủ, hãy thức, hãy vùng dậy từ trong đám người chết, thì Đấng Christ sẽ chiếu sáng ngươi”  (Êph 5:14, BTTHD)

Ảnh Hưởng Của Vị Trí Cao – Lớn

Ảnh Hưởng Của Vị Trí Cao – Lớn

 

Kinh Thánh: Gia-cơ 3:1

“Hỡi anh em, trong vòng anh em chớ có nhiều người tự lập làm thầy,

vì biết như vậy, mình sẽ chịu xét đoán càng nghiêm hơn”

 

 

 

 

Cơn bão số một của năm 2016 ập đến các tỉnh miền Bắc Việt Nam lấy đi nhiều thiệt hại nhà cửa, cây trồng, hoa màu… đặc biệt có những cây cổ thụ ngả đổ, bật gốc! Cây to, tán cành lớn, khi bị gió bão nó rung động mạnh, bản thân nó nếu vững chắc sẽ là vật cản gió rất ích lợi, nhưng nếu không vững thì sẽ ngã đổ và là mối nguy hiểm cho người và mọi vật xung quanh.

 

Nhìn những cây to đổ xuống và đọc Lời Chúa trong Gia-cơ 3:1, tôi liên tưởng đến một ảnh hưởng lớn khi một người tự lập làm thầy, nghĩa là người có tham muốn và tự đặt mình vào vị trí cao. Khi tự mình đặt chính mình ở vị trí cao, nói lên sự kiêu ngạo, tham vọng, quan liêu, muốn người khác kính cẩn, tôn trọng mình như trong câu chuyện của Ha-man (Ê-xơ-tê 3).

 

Trong Hội Thánh đầu tiên, các “giáo sư” hay “thầy” được tôn trọng như các Tiên tri, sau các Sứ đồ, nhưng trước các giám mục và Chấp sự, họ được giao phó công tác giảng dạy Phúc Âm, nên có nhiều người trong Hội Thánh tự lập làm “thầy” để được người ta tôn trọng.

 

Khi nói “tự lập làm thầy” có nghĩa người đó không được Chúa kêu gọi, không có ơn, không được Chúa dẫn dắt và không được Chúa ban phước, cũng như không được Hội Thánh công nhận. Một số người sử dụng cái lưỡi ăn nói khá lưu loát, hay có tài hùng biện, nhưng thật ra họ không có sứ điệp của Chúa, mà chỉ nói bởi sự khoe khoang và chỉ chú tâm đến sự thán phục, tán thưởng của người khác về sự phô trương tài năng của mình. Những người tự lập làm thầy không chuyển đạt chân lý, tuyên bố nhiều điều sai trật, họ thất bại trong trách nhiệm và bổn phận đáng phải có để rồi trở thành giáo sư giả. Họ thường dạy người khác, nhưng chính họ không sống theo điều mình đã dạy, đời sống họ hoàn toàn mâu thuẫn với điều họ dạy.

 

Ngày nay, ngoài xã hội có nhiều người tự lập làm “thầy”, họ mua bằng cấp, họ khai man để được chức tước nhưng chẳng có năng lực, chẳng có kiến thức… và chính vị trí họ tự lập làm ảnh hưởng guồng máy công việc của tổ chức, làm thất bại và nhiều hệ lụy đến người khác.

 

Thời Đức Chúa Giê-xu, Ngài đã chống lại những Ra-bi tức những giáo sư Do Thái Giáo (những người Pha-ri-si giữ địa vị “thầy”) Ma-thi-ơ 23, Kinh Thánh chép: “họ nói mà không làm”, “họ ngồi trên ngôi của Môi-se để làm giáo sư có thẩm quyền”, “họ lọc con ruồi nhỏ mà nốt con lạc đà”.

 

Gia-cơ khuyên: “Trong vòng anh em chớ có nhiều người tự lập làm thầy”. “Tự lập” nghĩa là không thực sự được Chúa dấy lên, đặt để, không ai phong chức, không ai công nhận, vì nếu như thế “sẽ bị xét đoán càng nghiêm hơn”. Vì nếu một người không biết luật thì khi phạm tội bị xử nhẹ hơn là một người am hiểu luật! Dạy luật cho người khác mà mình lại phạm luật. Đồng thời, đứng ở chỗ không phải do Chúa đặt để, làm việc Chúa không bảo, sống ảo tưởng thuộc linh và lên mình kiêu ngạo. Người như thế, tất nhiên sẽ bị Chúa xét đoán nghiêm khắc hơn và phải gánh chịu sự sửa trị của Đấng công bình, chân thật.

 

Có lắm người thích tìm giá trị cho chính mình ở địa vị cao, như làm “thầy” để được mọi người tôn kính mình, không những thế họ luôn tranh giành ảnh hưởng về cho mình và coi khinh người khác.

 

Như đã nói, là “thầy “ thì phải là người thuộc về Chúa, là người được Chúa xức dầu, là người được Chúa ban cho cái lưỡi của người dạy dỗ (Ê-sai 50:4). Là người được Chúa ban cho Lời của Ngài và truyền đạt Lời Ngài chứ không nói lời riêng mình. Là “thầy”, phải là người nói ra những lời ích lợi, gây dựng nâng đỡ, an ủi, khích lệ người khác. Là “thầy”, trước hết phải là học trò chăm chỉ, siêng năng lắng nghe từ vị Thầy – Giáo sư lớn – tức lắng nghe Đức Thánh Linh phán dạy và hướng dẫn.

 

Ngày nay, có những vị thầy đã dùng diễn đàn, bục giảng để lên án, chỉ trích, ta thán… Lẽ thật bị che khuất bởi những lời cay đắng, buồn giận, lời không đem đến sự sống, sự khích lệ… khiến ảnh hưởng đến sự khao khát lẽ thật của phần đông con dân Chúa. Nó cũng giống như lời của bão táp khiến đổ ngã tâm linh. Vậy, hãy cầu nguyện xin Chúa giúp cho con dân Chúa bén nhạy để nhận biết, phân biệt rõ ràng, xin Chúa gạn lọc những giả dối ấy trong Hội Thánh, cũng hãy cầu nguyện cho tất cả các vị thầy được Chúa kêu gọi, chọn lựa, xức dầu, ban phước… để họ luôn có cái lưỡi của người được Chúa dạy dỗ và được ơn dạy dỗ dân sự Chúa! Vị trí càng cao, ảnh hưởng của nó càng lớn, bản thân phải bám rễ vững chắc trong nền của đức tin và lẽ thật tức là Lời của Đức Chúa Trời. Chính bản thân phải nuôi mình, phải có sự sống thật trong Đấng Sống và là sự ích lợi cho những người xung quanh như “cây cao, bóng cả, tỏa mát bao người”!

Nguyên Tắc Sống Của Chúa Cho Cha Mẹ Cơ Đốc

Nguyên Tắc Sống Của Chúa Cho Cha Mẹ Cơ Đốc

Phi-líp 2: 4,5 chép: “Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa. Hãy có đồng một tâm tình như Đấng Christ đã có”.

 

 

 

Trong trung tuần tháng 7 năm 2015, liên tiếp có những vụ án giết người. Người tình giết gia đình người yêu của mình tại Bình Phước; con trai giết mẹ vì tham những vòng vàng mẹ đeo tại An Hoà, Rạch Giá. Người đàn ông giết 4 người trong một gia đình vì tham vợ người ta tại Nghệ An… Dòng máu lạnh vô cảm đã và đang “đóng băng” trong nhiều con người tội lỗi ngày nay. Một trong những lý do lớn nhất là họ đang sống với những nguyên tắc sống sai trật. Nhân sinh quan của họ chỉ xoay quanh “cái tôi” của mình, họ trở nên ích kỷ, tham lam và độc ác.

 

Trong cuộc sống đời thường, mỗi người có những nguyên tắc sống khác nhau, tuỳ theo “nhân sinh quan” của mình. Tuy nhiên, nguyên tắc sống của Chúa Giê-xu là mẫu mực cho đời sống Cơ Đốc Nhân để chúng ta học và thực hành.

 

Câu chuyện Kinh Thánh về phép lạ “Chúa Giê-xu hoá bánh ra nhiều cho 5.000 người ăn” được cả 4 sách Phúc Âm chép lại, là câu chuyện hàm chứa rất nhiều các nguyên tắc sống dành cho chúng ta.

 

Nguyên tắc 1: Lòng thương xót (Ma-thi-ơ 14:4)

 

“Lòng thương xót” bày tỏ cảm xúc, nhân cách và tình yêu của con người đối với con người. Chúa Giê-xu là Con Người trọn vẹn nên Ngài cũng có lòng cảm xúc, thương xót. Cụm từ “Chúa động lòng thương xót” là cụm từ rất đẹp của Đấng Nhân Lành và Yêu Thương. Chúa quan tâm, giúp đỡ người cùng khốn, những người đáng thương. Cứ mỗi lần “Chúa động lòng thương xót” là có nhiều người được cứu giúp và có nhiều điều kỳ diệu xảy ra, ví dụ: Ma-thi-ơ 9:36 ghi lại: “Khi Ngài thấy những đám dân đông, thì động lòng thương xót, vì họ cùng khốn, và tan lạc như chiên không có kẻ chăn”, Lu-ca 7:13: “Chúa thấy, động lòng thương xót người, mà phán rằng: đừng khóc!”, Ma-thi-ơ 14:14 “Ngài ở thuyền bước lên, thấy đoàn dân đông đúc, động lòng thương xót, mà chữa cho kẻ bệnh được lành”.

 

Khi trái tim của chúng ta biết rung cảm là chúng ta đang sống ích lợi! Do đó phụ huynh Cơ Đốc phải dạy, tập con mình có cái nhìn và nhạy cảm với những con người sống quanh mình đang thiếu thốn về nhu cầu vật chất, tinh thần và cả nhu cầu tâm linh.

Tôi rất cảm kích đối với những món quà “Samaritian” được gởi tới từ một Hiệp Hội Cơ Đốc trên thế giới dành cho những trẻ em các nước thiếu kém về kinh tế trong những dịp Giáng Sinh. Đó là những món quà do các em nhỏ tại một số quốc gia đã chọn mua để làm quà cho các em nhỏ khác, và trong những món quà đó còn có những bức thư tình yêu và thiệp chúc mừng nhân dịp kỷ niệm Chúa Giáng Sinh.

 

Lúc nhỏ, gia đình tôi sống gần khu gia binh, có những trẻ em mồ côi do chiến tranh. Mỗi lần gần Tết, ba má tôi soạn những áo quần còn tốt mà chúng tôi không còn mặc được nữa để cho các em đó. Mẹ tôi nói: “Cũ của mình nhưng chắc sẽ là mới đối với các em đó”. Ngoài ra mẹ tôi còn mổ những con heo đất của chúng tôi để mua thêm những nhu yếu phẩm cho họ nữa. Mẹ tôi nói: “Mình ăn rồi sẽ hết, nhưng cho người khác ăn thì còn”. Truyền Đạo 11:1 chép: “Hãy liệng bánh ngươi nơi mặt nước, vì khỏi lâu ngày ngươi sẽ tìm nó lại”. Và Lời Chúa trong Ga-la-ti 6:2 cũng dạy rằng: “Hãy mang lấy gánh nặng cho nhau, như vậy anh em sẽ làm trọn luật pháp của Đức Chúa Trời”. Từ ba má, tôi đã được học nguyên tắc chia sẻ, và điều đó còn lại trong tôi đến ngày nay.

 

Câu chuyện trong Lu-ca 10:35-37 nhắc nhở chúng ta đừng sống vô cảm trước những người cần sự giúp đỡ, trước những người đang ở trong tình trạng khốn khổ cả thể xác lẫn tâm linh. Mỗi ngày, hãy cầu nguyện xin Chúa cho con có cái nhìn đầy lòng thương xót và yêu thương của Ngài để con có những hành động yêu thương thiết thực.

 

Nguyên tắc II: Sống có trách nhiệm (Ma-thi-ơ 14: 15-16; Mác 6:35-37)

 

Khi đọc câu chuyện này, chúng ta thấy các môn đồ sợ gánh chịu trách nhiệm, sợ trời tối mà đoàn dân đông thì đang đói. Vả lại, họ đang ở trong hoang mạc, xa khu dân cư thì kiếm đâu thức ăn đủ cho đoàn dân. Nếu họ đói xỉu thì ai chịu trách nhiệm? Nên các môn đồ đã đến thưa với Chúa xin giải tán đoàn dân đông để họ tự tự lo cho bữa ăn của mình. Nhưng Chúa phán một câu làm họ giật mình: “chính các ngươi hãy cho họ ăn”, hay nói khác hơn “trách nhiệm các ngươi là hãy cho đoàn dân đông ăn trước khi trời tối”. Nguyên tắc của Chúa ở đây là: Đừng trốn tránh trách nhiệm!

 

Ngày nay, vì cuộc sống quá tất bật, các bậc phụ huynh thường “ném” trách nhiệm nuôi dạy con cái cho học đường, cho ông bà, bảo mẫu, giám hộ, hoặc chỉ lo chu toàn trách nhiệm nuôi dưỡng thuộc thể mà quên chăm sóc thuộc linh. Do đó, thế hệ trẻ lớn lên về phần thuộc thể mà què quặt trong đời sống tâm linh. Đồng thời phụ huynh chưa quan tâm đến việc giao trách nhiệm của từng công việc phù hợp độ tuổi để con trẻ tập tành sống trong tinh thần trách nhiệm. Khi trẻ biết chu toàn những trách nhiệm nhỏ được giao, thì chúng sẽ hoàn thành những công việc lớn hơn khi chúng trưởng thành.

 

Nguyên tắc III: Dạy con biết dâng hiến (Ma-thi-ơ 14:17-18)

 

Con trẻ thường muốn “thu gom“ về mình, đó là bản chất của loài người tội lỗi. Khi còn dạy trẻ, tôi đã từng nhìn thấy: khi tôi tặng một cháu bé một gói kẹo, tôi xin lại một cây, nó nhất quyết không cho! Tôi đã kiên trì huấn luyện, giải thích và uốn nắn… Dần dà những đứa trẻ đó biết chia sẻ khi nhận quà từ người khác.

 

Chúng ta dâng hiến không phải cầu mong phước như các tôn giáo khác. Họ dâng hiến với ý thức để nhận phước, song Cơ Đốc nhân phải nhận biết vì đã được phước nên dâng hiến và ban cho.

 

Qua câu chuyện dâng hiến của bé trai: ( 5 cái bánh và 2 con cá) chúng ta học được một số bài học:

 

1) Dâng hiến không giới hạn tuổi tác.

Bé trai vô danh trong câu chuyện, dầu còn nhỏ nhưng biết dâng cho Chúa điều mình có. Ngày nay cũng có một số thiếu nhi biết tiết kiệm để dâng cho Chúa. Trại hè của thiếu niên Tổng Liên Hội 2015 với chủ đề “12 giỏ đầy” mục đích dạy các em biết giá trị của việc dâng hiến. Các em đã dâng hiến để dâng xây dựng nhà thờ, mua ghế cho nhà thờ Viện Thánh Kinh Thần Học, giúp các em cơ nhỡ và tập vở cho các em nghèo.

 

Khi dạy trẻ biết dâng hiến cho Chúa cách vui lòng tức là đã dạy trẻ bước đầu tiên của đức tin để bày tỏ lòng yêu Chúa, biết ơn Chúa. Hãy dạy trẻ dâng hiến trung tín, dâng trong các buổi học. Trong lớp tôi dạy có một em thường bụm hai bàn tay không rồi bỏ vào hộp, nhiều lần như vậy, tôi hỏi: “tại sao con làm vậy?”. Em nói: “bố mẹ con lúc nào cũng quên cho con tiền dâng“. Đó là một sai trật của phụ huynh. Chúng ta nên dạy trẻ tự nguyện trích ra số tiền nó đang sở hữu để dâng cho Chúa, đừng để trẻ cứ phụ thuộc vào chúng ta về việc cho tiền thì dâng, không cho thì thôi.

 

2) Dâng hiến trong cơ hội Chúa cần.

Bé trai dâng bánh và cá khi Chúa cần. Em có thể nói ở nhà tôi nhiều lắm! Mai tôi sẽ mang đến cho Chúa, còn bây giờ thì không! Nhưng bé trai đó đã không nói với Chúa như thế. Nếu hẹn mai thì sẽ mất cơ hội và hối tiếc. Chúa cần cái chúng ta hiện có, chứ không phải cái chúng ta sẽ có! Nhiều người hẹn khi nào tôi có nhiều tiền tôi sẽ dâng… Chúa không phải nghèo để khi chúng ta dâng Chúa mới có, nhưng Chúa cần tấm lòng yêu Chúa, lòng biết ơn của chúng ta đối với Ngài mà dâng hiến cho công việc nhà Chúa. Hãy dạy cho trẻ biết nhu cầu, công việc Chúa trong Hội Thánh, đó cũng là cách chúng ta dạy trẻ quan tâm và dự phần vào công việc Chúa trong lúc có cần.

 

3) Dâng hiến trong thái độ vui lòng, tình nguyện.

Bé trai có thể giữ lại phần ăn ít ỏi của mình, bởi đó là điều rất đỗi bình thường, nhưng em đã dâng hết cho Chúa. Các môn đồ và Chúa Giê-xu không ép buộc em phải dâng nhưng em sẵn sàng dâng cho Chúa cách vui lòng. Em cũng không nghĩ rằng nhờ mấy cái bánh và cá ít ỏi của mình trao vào  tay Chúa sẽ là nhân tố để Ngài làm nên việc lớn, bé trai chỉ biết Chúa cần thì em sẵn lòng dâng, vậy thôi.

 

Khi tôi dạy lớp Thiếu nhi trong Trường Chúa nhật, có một bé gái luôn dâng một số tiền rất lớn, có thể nói bằng tổng số tiền của lớp hằng tuần. Tôi hỏi em: “Sao con luôn dâng nhiều như vậy?“ Em nói: “Vì ba cho con tiền hằng ngày, nhưng con không xài chi hết và con thích dâng cho Chúa nhiều từ những điều con có”.

 

4) Sự dâng hiến đem đến kết quả lớn lao.

Chúa dùng 5 cái bánh và 2 con cá của em bé dâng, hoá ra nhiều cho 5.000 người ăn no nê, em cũng được ăn và còn dư 12 giỏ đầy.

 

 

Nguyên tắc IV: Dạy con biết gìn giữ trật tự, ngăn nắp.

 

Trước một đoàn dân quá đông, hỗn loạn và mất trật tự, làm sao có thể phân phối thức ăn, nhất là đối với những người đang đói. Chúa Giê-xu ổn định trật tự bằng cách truyền cho dân chúng ngồi xuống trên cỏ, theo hàng 50 người, hàng thì 100 người. Bởi vì nếu đứng sẽ mất trật tự! Tất cả ngồi sẽ nhìn thấy Chúa và việc Chúa làm. Ai cũng lãnh được phần của mình mà không chen lấn, tranh cãi, giành giật…

 

Từ thơ ấu, hãy dạy trẻ giữ nề nếp, trật tự trong tất cả sinh hoạt: đúng giờ giấc, đồ đạc ngăn nắp. Cụ thể: biết thu dọn đồ chơi sau khi chơi hoặc các dụng cụ học tập sau khi học. Chúng ta nhớ Đức Chúa Trời là Chúa của trật tự. Ngài đã đổi sự hỗn loạn ra trật tự trong việc tạo dựng vũ trụ này. Cho nên từ trong gia đình đến Hội Thánh, chúng ta phải dạy trẻ sống có trật tự. Phải biết kỉnh kiềng trong sự thờ phượng Chúa vì Chúa là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa.

 

Dạy trẻ biết giữ các nề nếp sinh hoạt trật tự là khởi đầu dạy trẻ biết sắp xếp thời khoá biểu, biết quản lý các vật dụng mà chúng sở hữu, biết quản lý tốt sức khoẻ của chính nó…

 

Nguyên tắc V: Dạy trẻ biết cảm tạ (Ma-thi-ơ 14:18b, Mác 6:41)

 

Trước khi phép lạ xảy ra, Chúa Giê-xu cầm lấy bánh và cá cầu nguyện, tạ ơn Đức Chúa Trời. Vì Ngài biết nguồn thực phẩm dồi dào sẽ đến từ Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu cảm tạ với lòng biết ơn sự cung ứng dư dật của Đức Chúa Trời. Chúa Giê-xu cảm tạ trước khi ăn, chúng ta gặp nhiều lần trong Kinh Thánh, ví dụ : “Chúa Giê-xu lấy bánh tạ ơn rồi bẻ ra” hoặc sau khi sống lại, trên đường đi với hai môn đồ về làng Em-ma-út… chiều tối cùng vào quán ăn “Chúa cầm bánh tạ ơn và bẻ ra”.

 

Nguyên tắc quen thuộc này cha mẹ phải dạy dỗ con từ khi còn thơ ấu “ngay từ khi trẻ sơ sinh bắt đầu nhận thức”. Tất cả những thức ăn, thức uống đưa vào miệng, trước hết phải dạy trẻ biết cảm tạ Chúa, bằng những cử chỉ hành động như gật đầu “Ạ Chúa” nếu chưa biết nói, hay cụm từ ngắn gọn “cảm ơn Chúa” lúc bắt đầu biết nói.

 

Có khi trong đời sống chúng ta nhận rất nhiều ơn phước Chúa, nhưng quên tạ ơn Chúa. Trong câu chuyện Lu-ca 17:11-19 ghi lại; trong số mười chịu ơn Chúa, chỉ có một người biết ơn, tạ ơn Chúa. Trong thực tế của xã hội, vì không chú tâm đến điều nầy trong giao tiếp, cho nên một số người nước ngoài đã có nhận xét về người Việt Nam rằng: ít thấy người Việt có thói quen “cảm ơn” và “xin lỗi”. Đây là điều rất đáng tiếc.

 

Cha mẹ phải làm gương trong đời sống biết ơn Chúa và chia sẻ cho con cái tất cả những ơn phước đã nhận nơi Chúa của cuộc đời mình để ghi dấu ấn cho trẻ thói quen biết ơn và thuật lại ơn phước Chúa ban cho. Hãy tập cho trẻ biết đếm tất cả ơn phước Chúa ban cho để đời sống chúng từ thơ ấu biết ngợi khen Chúa. Trong II Cô rinh tô 9:15: “Tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài không xiết kể”.

 

Nguyên tắc VI: Nguyên tắc tiết kiệm (Giăng 6: 12-13, 26)

 

Chúa bảo “hãy lượm lại những miếng còn thừa hầu cho không thiếu mất chút nào”. Điều này nói lên nguyên tắc sống tiết kiệm của Chúa Giê-xu đã dạy các môn đồ.

 

Trong xã hội có rất nhiều gia đình dư giả, hoang phí trong nhiều phương diện sinh hoạt hằng ngày, bên cạnh đó có quá nhiều người khác lại thiếu thốn, đơn sơ trong mọi sinh hoạt.

 

Tiết kiệm để chia sẻ cho người khác đó là hành động ban cho mà Kinh Thánh chép: “Ban cho có phước hơn nhận lãnh” (Công Vụ 20:35).

 

Tiết kiệm khác với keo kiệt hoặc hà tiện. Tiết kiệm là ý thức trong việc sử dụng không để lãng phí. Dạy con biết tiết kiệm là một nguyên tắc cần thiết để trẻ không lãng phí thì giờ, sức lực, thực phẩm, tiền bạc, của cải Chúa ban cho. Một ý thức tự kiểm soát mình để không phí phạm những điều Chúa cung cấp cho thể xác, tâm trí và linh hồn chúng ta.

 

Mục sư William MacDonald từng chia sẻ: “Nếu Chúa Giê-xu chỉ là một con người, Ngài sẽ không bao giờ bận tâm đến những bánh vụn còn lại. Vì ai nuôi được 5.000 người như vậy thì sẽ không bận tâm đến những mãnh vụn còn thừa.

 

Nhưng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, và với Đức Chúa Trời, không được phí phạm chút nào đến những món quà hào phóng của Ngài”.

 

Chúa không muốn chúng ta phung phí những gì Chúa ban cho, nên Ngài đã để ý, dặn dò các môn đồ phải lượm những miếng bánh thừa không mất chút nào.

 

Nguyên tắc VII: Nguyên tắc bảo vệ môi trường.

 

“Hãy lượm hết những miếng bánh thừa” còn nói lên Chúa là Đấng Chu Toàn, bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp của thiên nhiên. Nếu không thu dọn những bánh, cá thừa lại hoặc rơi, đổ trên nền cỏ chắc chắn sẽ ô uế, hôi thối, nhơ nhớp.

 

Hãy dạy trẻ biết giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường của bé và cả cho những người lân cận. Một ý thức vệ sinh chung phải hình thành từ thơ ấu. Có lần tôi cho đứa cháu viên kẹo, nó đã ăn và giữ mãi trong tay mẩu giấy kẹo trong suốt hơn một tiếng đồng hồ đi dạo chơi thành phố biển. Tôi hỏi: “Tại sao con không vứt đi?” Cháu nói: “Con không thấy thùng rác đâu cả!” Một thói quen tốt thật đáng khen!

 

Qua câu chuyện Chúa Giê-xu hoá bánh cho 5.000 người ăn no nê, còn dư lại là bài học thuộc linh cho con dân Chúa trong mọi thế hệ. Các con thơ chúng ta đang đói khát Lời Chúa. Chúng ta là phụ huynh hãy ghi nhớ các nguyên tắc sống Chúa dạy dỗ chúng ta mà quan tâm giáo dục, dạy dỗ, uốn nắn con cái mình từ trong gia đình, Hội Thánh và ra ngoài xã hội.

 

– Hãy dạy trẻ biết quan tâm, rung động, thương xót đến những người cùng khổ, thiếu thốn vật chất lẫn thuộc linh.

– Hãy dạy trẻ có tinh thần trách nhiệm để chu toàn các công tác của cha mẹ, cô thầy và của Chúa giao cho.

– Hãy dạy trẻ biết dâng hiến từ những đồng bạc nhỏ nhất, ít nhất mà chúng đang có.

– Hãy tập cho trẻ nếp sống có trật tự, biết tiết kiệm và giữ vệ sinh bản thân và vệ sinh chung.

– Hãy dạy trẻ có thói quen tốt về sự biết ơn bằng hành động thành tâm cảm ơn những gì Chúa ban cho.

 

Thực hiện tốt các nguyên tắc trên, mỗi đời sống sẽ tìm thấy hạnh phúc, gia đình vui vẻ, bình an, yêu thương. Hội Thánh sẽ có những con người gương mẫu làm sáng Danh Chúa trong cộng đồng mình đang sống.

 

 

 

 

 

Thập tự giá nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh ở đâu?

Thập tự giá nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh ở đâu?

Việc Chúa Giê-xu ở Na-xa-rét bị đóng đinh là một trong những sự kiện đã được chứng minh trong lịch sử cổ xưa. Sự thật đã được chứng minh bởi các nhà thần học và nhà sử học. Nó đã được viết mà không cường điệu: “Ngay cả những học giả và nhà phê bình, họ đã tẻ tách ra khỏi hầu hết mọi việc khác trong bối cảnh lịch sử sự hiện diện của Đấng Christ trên trái đất cũng không thể nghĩ ra sự thật về cái chết của Đấng Christ.” (John McIntyre, ‘The Uses of History in Theology’)

Một thí dụ về lời phát biểu này là sự khẳng định của Tiến sĩ Bart Erhrman của Đại học North Carolina trên Đồi Chapel. Trong khi ông chỉ trích Tân Ước về nhiều trường hợp và phủ nhận bản chất siêu nhiên của Cơ Đốc giáo, thì học giả thế tục nổi tiếng này cũng đã khẳng định như sau:

Một trong những sự kiện lịch sử chắc chắn nhất, ấy là Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá theo lịnh của Bôn-xơ Phi-lát, Tổng đốc xứ Giu-đê của người La Mã”.

Bốn sách Tin Lành khẳng định cột mốc quan trọng này trong lịch sử cứu chuộc. Các nhà cầm quyền thế tục trong thời buổi ấy đã xác nhận nó. Hội Thánh đầu tiên đã khẳng định điều đó. Hàng triệu và hàng triệu người tin vào điều đó. Nhưng sự đóng đinh trên thập tự giá đã đã xảy ra tại đâu? Câu trả lời cho câu hỏi đó có liên quan mật thiết đến ý muốn của Đức Chúa Trời và phương thức của Đức Chúa Trời. Nói một cách đơn giản, vị trí đóng đinh của Chúa Giê-xu có cả hai mặt: biết và không biết.

Chúng Ta Biết Gì Về Địa Điểm Đóng Đinh Trên Cây Thập Tự

Các sách Tin Lành khẳng định rằng Đấng Christ đã bị đóng đinh trên thập tự giá ở bên ngoài cổng thành Giê-ru-sa-lem. Cả Giăng và trước giả sách Hê-bơ-rơ khẳng định sự thật này:

Vì nơi Đức Chúa Giê-xu bị đóng đinh ở gần thành, và chữ đề trên bảng đó viết bằng chữ Hê-bơ-rơ, chữ La-tinh và chữ Gờ-réc, nên có nhiều người Giu-đa đọc đến” (Giăng 19:20).

Ấy vì đó mà chính mình Đức Chúa Giê-xu đã chịu khổ tại ngoài cửa thành để lấy huyết mình làm cho dân nên thánh (Hê-bơ-rơ 13:12).

Kinh Thánh cũng khẳng định rằng việc Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự được các quan chức của đế quốc La Mã sắp xếp khi liên minh với cấp lãnh đạo Do Thái trong hệ thống ra-bi, là Toà Công luận. Sự hiện diện của quan chức quân sự La Mã chỉ ra bản chất quân sự của sứ mệnh và tầm quan trọng của sự hành quyết cho cả hai: địa phương và, phù hợp với áp lực của địa phương, nhà cầm quyền tỉnh lẽ (Quyển Jesus: A New Vision). Chúng ta biết rằng người ta có thể nhìn thấy sự hành quyết của người La Mã từ một khoảng xa xa. Vì chúng ta đọc: Lại có những đàn bà đứng xa xa mà xem. Trong số ấy có Ma-ri, Ma-đơ-len, Ma-ri là mẹ Gia-cơ nhỏ, và Giô-sê, cùng Sa-lô-mê (Mác 15:40).

Quan trọng nhất, chúng ta biết danh xưng của địa điểm Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự. C. W. Wilson viết: “Rõ ràng . . . Đấng Christ đã bị đóng đinh trên thập tự giá tại một địa điểm ai cũng biết, với danh xưng phân biệt…”. Vì sau khi bị sĩ nhục và quấy rầy qua việc vác thập tự giá mình qua các đường phố đông đúc có nhiều người quan sát trong giận dữ, dẫn tới bối cảnh hành quyết, Chúa Giê-xu người Na-xa-rét đã bị đóng đinh trên thập tự giá ở một chỗ gọi là Gô-gô-tha, nghĩa là chỗ cái Sọ (Ma-thi-ơ 27:33). Gô-gô-tha “là cách phiên âm chữ Hy Lạp từ Gulgulta tiếng A-ram, từ này tương đương với Gulgoleth tiếng Hê-bơ-rơ” theo Wilson. Tiếng Hy Lạp tương ứng là kranion (từ chữ này mới rút ra chữ cranial theo Anh ngữ). Chính bác sĩ Lu-ca sử dụng từ La-tinh calvaria. Phần dịch thuật Anh ngữ là chỗ ai cũng biết là Calvary (Gô-gô-tha). Phần dịch thuật trong Anh ngữ sẽ là “sọ hay cái sọ” (Carl Hensley, Tự điển bách khoa Kinh Thánh Baker).

Các cuộc chiến Nổi dậy của người Do Thái (66-73SC) đã chứng kiến sự huỷ diệt Đền thờ Thứ hai vào năm 70-71 SC ở thành Giê-ru-sa-lem bởi Titus (39-81SC), chắc chắn được thêm vào sự giảm dần của địa hình địa phương (Lawrence Schiffman, From Text to Tradition). Cuối cùng, sử gia nổi tiếng của Hội Thánh thời cổ đại, Eusibius, đã hành trình đến Giê-ru-sa-lem để khám phá bối cảnh của việc Chúa bị đóng đinh trên thập tự giá. Giáo phụ Hội Thánh và là học giả lỗi lạc của Hội Thánh đã cùng đến đó với Nữ hoàng Helena (246-330SC), Hoàng hậu La Mã và là mẹ của Constantine Đại đế (272-337SC). Các Cơ Đốc nhân địa phương ở thành Giê-ru-sa-lem đã dẫn Eusibius và Helena đến một địa điểm bên ngoài cổng cổ thành (các bức tường được mở rộng vào thế kỷ XVI), một địa điểm nơi tổ chức tế lễ cho đến năm 66SC (Jerome Murphy-O’Connor, The Holy Land). Bối cảnh đã nếm trải những thay đổi đáng kể khi Hadrian (36-138SC), vào năm 135, xây dựng các đền thờ cho các thần của người La Mã, bao gồm Aphrodite và Jupiter, trong quyển Aelia Capitolina (tên mới La Mã mà Hadrian đặt cho Giê-ru-sa-lem).

Jerome Murphy-O’Connor phát biểu: “Mặc dù có bằng chứng về Jerome và một số văn bản Byzantine, nhiều khả năng nhất Ngôi Mộ Thánh (Holy Sepulcher) chính là nơi tọa lạc của Đền thờ Capitoline”. Và đấy là một lời tuyên bố đáng chú ý. Vào năm 326 SC, con trai của Helena, Constantine bắt đầu xây dựng trên đó một tòa lâu đài Cơ Đốc, Nhà thờ Mộ Thánh (the Church of the Holy Sepulcher), bao quanh cả đồi Gô-gô-tha, nơi đóng đinh Chúa trên thập tự giá và ngôi mộ của Giô-sép người A-ri-ma-thê, nơi chôn cất và là nơi Đức Chúa Giê-xu Christ phục sinh. Murphy-O’Connor, trong quyển Oxford Archeological Guide from the Earliest times to 1700, đã tóm tắt cả lịch sử và khảo cổ học của Nhà thờ Mộ Thánh và các khả năng rồi kết luận: Có phải đây là chỗ mà Đấng Christ đã chịu chết và chịu chôn? Phải, rất có thể”.

Những Gì Chúng Ta Không Biết Về Địa Điểm Đóng Đinh Chúa Trên Thập Tự Giá

Để đáp lời cho câu hỏi nêu trên, và bất chấp các quyết đoán của một số người, chúng ta phải đáp: “rất nhiều”. Chúng ta biết những gì chúng ta biết, và chúng ta phải nhất định rằng chúng ta không biết những gì chúng ta không biết. Chúng ta hãy nắm lấy lời xưng nhận trong Kinh Thánh nói rõ rằng Chúa của chúng ta đã bị đóng đinh tại đồi Gô-gô-tha. Trong khi chúng ta biết từ ngữ này: Gô-gô-tha, hoặc Calvary, ý nói (nghĩa là, “sọ”), chúng ta không biết liệu nó có đề cập đến một trong ba nguồn gốc của danh xưng này hay không.

Gô-Gô-Tha, Địa Điểm Của Đồi Sọ, Đề Cập Đến Địa Điểm Huyền Thoại “Sọ Của A-Đam”

Phải, đúng như thế đấy. Giáo phụ Hội Thánh, Origen (185-253SC), vừa là học giả Hê-bơ-rơ và là cư dân ở Giê-ru-sa-lem, biết Gô-gô-tha là địa điểm mà sọ của A-đam được chôn cất ở đó. Nếu bạn nghĩ Origen là “đúng”, thì ai cũng có thể thách thức nhận định của bạn bằng cách chỉ ra cấp lãnh đạo khác của Hội Thánh đầu tiên, họ đã tin rằng Chúa Giê-xu đã bị đóng đinh trên thập tự giá trong chỗ chôn cất A-đam. Trong số này bao gồm Athanasius đáng kính (296-373SC), Epiphanies (312-403SC) và Basil ở Caesarea (329-379SC).

Nhận định thứ hai về Gô-gô-tha thì hợp lý hơn, nhưng vẫn khác việc với nhận định của đa số:

Gô-Gô-Tha, Địa Điểm Của Đồi Sọ, Đề Cập Đến Địa Điểm Hành Quyết Của Người La Mã

Trong bối cảnh này, địa điểm mà ở đó Chúa chúng ta bị đóng đinh trên thập tự giá là “miếng ruộng chết” phổ thông dành cho những kẻ loạn nghịch và hàng tội phạm thù nghịch đối với sự chiếm đóng của người La Mã. Như vậy, khu vực này nằm rải rác với những hộp sọ của “những tên tội phạm bị kết án” (Wilson, quyển Golgotha and the Holy Sepulchre). Một khi thịt biến mất khỏi hộp sọ và bộ xương, các thành viên trong gia đình sẽ lo chôn cất hài cốt. Không kém gì học giả Cơ Đốc và dịch giả Kinh Thánh, là Jerome (347-420SC), và sử gia và thầy tu người Anh, Venerable Bede (673-735SC), đã duy trì vị trí này. Có một khu chôn cất nổi tiếng ở Luân Đôn được gọi là “Bunhill Fields” (Alfred Light, quyển Bunhill Fields). Cụm từ đó “Bunhill”, là một cách phát âm thông thường của “Bone Hill”. Các mục sư không theo quốc giáo và nhiều người khác ngoài vòng Giáo hội Anh đã bị chôn vùi ở đó. Quan điểm thứ hai về ý nghĩa Calvary cho rằng ngọn đồi nơi Đấng Christ bị đóng đinh cũng là một “Bunhill” nữa.

Giờ đây, nhận định thứ ba là nhận định mà bạn đã nghe.

Gô-Gô-Tha, Địa Điểm Của Sọ, Đề Cập Đến Một Tương Thích Về Địa Lý Giống Như Một Cái Sọ

Sự hiểu biết này đã duy trì quan điểm phổ thông nhất về địa điểm Gô-gô-tha ít nhất là thế kỷ thứ 18. Như vậy, có người đã viết Gô-gô-tha là một ngọn đồi trọc, một mảng đá có hình giống với cái sọ người. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng không có một tham khảo nào nói tới việc này trong Kinh Thánh. Phải, đây là một vị trí khá cao có thể nhìn thấy được, song không một trước giả nào trong Kinh Thánh, và cũng không một người Hy Lạp, người Do Thái hay các nhà quan sát người La Mã nào gọi nó là Núi Calvary. Đây hoàn toàn là một khái niệm Tây phương (Wilson, quyển Golgotha and the Holy Sepulchre).

Bây giờ, mọi sự này có thể gây khó chịu cho một số người đã tin theo một hoặc các khái niệm khác về Gô-gô-tha. Hơn nữa, cuộc tranh cãi nhấn mạnh thực tế: chúng ta thực sự chỉ dám chắc về những gì Kinh Thánh nói. Và như thế là đủ chưa?

Chúng Ta Biết Mọi Sự Chúng Ta Cần Phải Biết

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Giê-xu Christ của chúng ta đã bị đóng đinh trên thập tự giá giữa hai tên cướp, một kẻ ăn năn và một kẻ không. Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết ai đã đóng đinh Đấng Christ: một âm mưu của các quan chức La Mã cùng các nhà lãnh đạo tôn giáo người Do Thái. Nói cách khác, Dân Ngoại và người Do Thái như nhau được tiêu biểu trong tội ác giết người có tổ chức (“giết người của Đức Chúa Trời bởi Con Người). Chúng ta biết rằng thập tự giá có thể được nhìn thấy từ một khoảng xa xa. Chúng ta biết rằng có những người phụ nữ ở đó, bao gồm cả mẹ của Chúa Giê-xu. Chúng ta biết rằng Sứ đồ Giăng đã có mặt ở đó. Chúng ta biết rằng nhiều người đã lìa bỏ Đức Chúa Giê-xu Christ trong thì giờ có cần nhất của Ngài.

Nhưng còn nhiều điều mà chúng ta chưa biết. Sự việc giống như thể Đức Thánh Linh đã đặt một bức màn thường trực tại bối cảnh. Chúng ta phải nhớ rằng việc làm đó quá khủng khiếp đến nỗi đất rung chuyển và bóng tối tăm giáng xuống trên bối cảnh khủng khiếp, giống như thể chính Đấng Tạo Hoá không thể chịu đựng được cảnh tượng ấy. Nhưng đối với địa điểm chính xác nơi Đức Chúa Giê-xu Christ bị đóng đinh, thì chúng ta không thể dám chắc. Rất có thể là Nhà thờ Mộ Thánh hiện nay là vị trí chính xác của đồi Calvary và ngôi mộ của Giô-sép người A-ri-ma-thê, nơi Chúa của chúng ta sống lại từ kẻ chết.

Vậy, có một số việc mà chúng ta nhìn biết từ Kinh Thánh, và có đủ bằng chứng khảo cổ và văn hoá xưa chứng minh sự đóng đinh Đấng Christ trên thập tự giá và đề xuất một địa điểm. Và có nhiều việc mà chúng ta chưa biết. Chúng ta nhớ tới lời cảnh cáo từ Phục Truyền Luật Lệ Ký 29:29: Những sự bí mật thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta; song những sự bày tỏ thuộc về chúng ta, và con cháu chúng ta đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp nầy”.

Nhưng chúng ta biết việc này: Chúa và Cứu Chúa của chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Christ đã chịu chết vì chúng ta tại một địa điểm được gọi là đồi Gô-gô-tha. Chính ở đó mà Đấng Tạo Hoá của thế gian đã bị đóng đinh trên thập tự giá bởi những kẻ mà Ngài đã dựng nên. Ngài đã chịu chết vì tội lỗi chúng ta và đã làm ứng nghiệm Giao ước của Việc Làm (“nếu các ngươi bất tuân, các ngươi sẽ chết”). Ngài gánh lấy cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời trên linh hồn vô tội của Ngài là làm thoả mọi đòi hỏi của luật pháp cho những ai chịu tiếp nhận Ngài (Giao ước Ân điển). Đức Chúa Giê-xu Christ bị đóng đinh trên thập tự giá trên cây gỗ xù xì lấy từ khu rừng mà Ngài đã dựng nên, với những mũi đinh lấy từ sắt mà Ngài đã dựng nên. Và tuy nhiên ở địa điểm ấy, Chúa Giê-xu đã nhìn xuống những kẻ đã đóng đinh Ngài và khạc nhổ nơi mặt Ngài và tìm cách sĩ nhục Ngài, rồi phán: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì” (Lu-ca 23:34).

Có một câu chuyện trong đời sống của Chúa chúng ta rất quan trọng cho chúng ta khi nghiên cứu. Trong sự hoá hình (Ma-thi-ơ 17:1-8; Mác 9:2-8; Lu-ca 9:28-36), Môi-se và Ê-li đã hiện ra với Phi-e-rơ, Gia-cơ, và Giăng để xác nhận thần tánh của Chúa Giê-xu. Đây là điểm nhấn thần học đầy năng quyền trong lịch sử cứu chuộc. Trong giây phút vinh hiển đó, “Luật pháp cùng các đấng tiên tri” khẳng định thân vị Chúa Giê-xu là Đấng mà họ viết ra; từ Cựu Ước đến Tân Ước; các lời tiên tri đời xưa đã được ứng nghiệm; lai lịch của Đấng Christ đã được tỏ ra trọn vẹn cho các môn đồ và đã được khẳng định về mặt siêu nhiên; cõi đời đời chạm đến cõi thời gian; và trời hạ xuống [thêm một lần nữa] tới đất. Đây là bối cảnh rất rực rỡ phải biết chắc. Phi-e-rơ muốn dựng ba cái trại để tưởng niệm biến cố ấy (có lẽ, phải xây qua những người may trại và xây dựng một đền thờ thật lớn). Chúa Giê-xu, Chúa chúng ta bảo Phi-e-rơ trên Núi Hoá Hình rằng ông sẽ không xây dựng (như Phi-e-rơ đã muốn làm) bất kỳ nhà thờ nào để đánh dấu địa điểm vật lý của sự hội hiệp long trọng ấy.

Chúa cũng căn dặn người đàn bà Sa-ma-ri bên giếng, trong Giăng 4:21-23, rằng từ đó trở đi người tin Chúa phải thờ phượng Đức Chúa Trời “bằng tâm thần và lẽ thật”, chớ không phải trên hòn núi này hoặc hòn núi kia. Ấy chẳng phải là về địa điểm nữa. Mà đó là một Thân Vị. Ấy chẳng phải là về phần thuộc thể nữa — xứ sở, đền thờ, bàn thờ. Địa điểm ấy thuộc về cõi đời đời. Ấy chẳng phải là về các dấu hiệu nữa, mà là về Đấng Cứu Thế.

Và có lẽ đấy là lý do tại sao chúng ta nhận biết về địa điểm Ngài bị đóng đinh vào thập tự giá, nhưng chúng ta không biết hết mọi sự. Ấy là bởi đức tin mà chúng ta nhìn lên cây thập tự xù xì xấu xí để nhìn thấy địa điểm tốt nhất của nó: Thập tự giá này là chỗ mà ở đó một “sự trao đổi lớn lao” đã diễn ra. Vì Chúa Giê-xu đã mang lấy án phạt dành cho tội lỗi của hết thảy những người nào kêu cầu Ngài trong sự ăn năn và đức tin; và đấy là chỗ mà ở đó sự thánh khiết của Đấng Christ được ưng ban cho hạng tội nhân giống như tôi. Hoặc, như tôi thường nói với thanh thiếu niên của Hội Thánh chúng ta trong lớp học giáo lý: “Nơi thập tự giá đồi Gô-gô-tha, Chúa Giê-xu gánh lấy tội lỗi của các con. Các con đã tiếp nhận sự sống trọn vẹn của Ngài”.

Mùa lễ Phục Sinh này, và trong từng mùa lễ của đời sống chúng ta, địa điểm đặc biệt mà ở đó Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá vì bạn và tôi, ấy là chỗ mà chúng ta hướng đến Ngài trong sự tan vỡ và trong tình yêu thương. Chính địa điểm ấy ở đó bởi đức tin, chúng ta dự phần cùng Ma-ri và Giăng và thầy đội La Mã, họ đã xưng nhận: Thật người nầy là Con Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 27:54). Người lính ấy đã nhận biết. Và bạn cũng nhận biết nữa. Đấng Christ bị đóng đinh trên thập tự giá ở chỗ nào? Đức Chúa Giê-xu Christ bị đóng đinh trên thập tự giá tại giao điểm của tình yêu thương của Đức Chúa Trời và sự tan vỡ của bạn. Bạn phải biết chắc về điều đó.

Vườn Ghết-sê-ma-nê

Vườn Ghết-sê-ma-nê

Khởi đầu cho chặng đường thương khó của Chúa Giê-xu là vườn Ghết-sê-ma-nê. Đây là khu vườn ở ngoài thành Giê-ru-sa-lem, nơi Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài thường xuyên lui tới để nhóm họp, và đặc biệt là để cầu nguyện vì nơi đây khá tĩnh lặng, bình yên với rừng cây xanh mát. Ghết-sê-ma-nê là nơi quen thuộc của Chúa Giê-xu cùng các môn đồ Ngài. Và tại nơi đây đã xảy ra nhiều sự kiện đáng nhớ.

Nhắc đến Ghết-sê-ma-nê, chúng ta không quên tại đây Chúa đã để lại những giọt mồ hôi vì chiến đấu với những cám dỗ của ý riêng. Ngài biết trước những điều sẽ xảy ra cho Ngài như sự đau đớn về thể xác, tâm linh nặng nề. Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, nhưng Ngài cũng là con người nên cũng cảm thấy những thống khổ trước mắt. Để chiến thắng cám dỗ, sợ hãi,… Ngài đã cầu nguyện “Cha ơi! Nếu có thể được, xin cho chén nầy lìa khỏi Con! Song không theo ý muốn Con, mà theo ý muốn Cha (Ma-thi-ơ 14:36).

Trong khoảng thời gian theo Chúa Giê-xu, các môn đồ thường theo Ngài đến đây cầu nguyện. Có lẽ họ cũng đã từng cầu nguyện theo nhóm, cầu nguyện cá nhân. Thế mà bây giờ, khi Ngài muốn mỗi cá nhân họ phải tỉnh thức để cầu nguyện thì họ lại ngủ. Phải chăng họ buồn ngủ vì cớ không gian xung quanh, hoặc là vì họ quá mỏi mệt sau một ngày bôn ba, vất vả, hay là vì họ chưa có thái độ đúng đắn khi cầu nguyện cách cá nhân?

Nhớ lại lúc tôi còn nhỏ, có nhiều lần đến với Chúa trong sự cầu nguyện, nhưng chỉ thưa được vài câu thì tôi đã bị ngủ gục.

Khi Chúa kêu gọi phải “tỉnh thức”, có nghĩa là sẽ có những “tai hoạ, hoạn nạn, thử thách, cám dỗ…” ập đến! Cơ Đốc nhân đang sống trong thời kỳ cuối cùng để chờ ngày Chúa trở lại, ma quỷ cũng đang ở trong thời kỳ giận hoảng và đang tìm nhiều cách để cám dỗ, để đánh gục chúng ta, để làm chúng ta đi vào sự hư mất đời đời.

Tại Ghết-sê-ma-nê, Chúa Giê-xu đã đối diện với con người phản bội là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt. Người này là môn đồ Chúa, và chắc hẳn cũng thường đến khu vườn này với Chúa như các môn đồ khác. Nhưng Giu-đa vào khu vườn lần này không phải để cầu nguyện, để nghe, để thấy Chúa dạy dỗ mà là để dẫn quân lính đến bắt Chúa. Vì tham tiền bạc mà ông đã bán Chúa Giê-xu với giá ba mươi miếng bạc. Ngày nay, không thiếu những Ích-ca-ri-ốt, đó có thể là bất kỳ ai đến với Chúa chỉ với mưu cầu vật chất, công danh, địa vị,… Khi đó, họ sẽ rất dễ bị cám dỗ để phản Chúa. Kinh Thánh dạy “sự tham tiền bạc là cội rễ mọi điều ác” (I Ti-mô-thê 6:10) và “tham lam chẳng khác gì thờ hình tượng” (Cô-lô-se 3:5).

Dầu phải đối diện với kẻ phản Ngài nhưng Chúa Giê-xu không một câu nặng lời quở trách, Ngài không bày tỏ thái độ chống đối mà Ngài đã bày tỏ bản tính yêu thương bằng một câu rất nhân hậu: “Bạn ơi! Vậy thì vì việc nầy mà ngươi đến đây sao?” (Ma-thi-ơ 26:50). Đối diện với kẻ phản Ngài mà Ngài vẫn gọi Giu-đa như một người bạn. Quả thật, Chúa là Đấng Yêu thương trọn vẹn, Ngài yêu con người tội lỗi của Giu-đa dầu Ngài không thể chấp nhận hành động tội lỗi ấy! Đây là cơ hội cho Giu-đa ăn năn nhưng ông chẳng thức tỉnh vì chắc chắn ông đã thiếu sự cầu nguyện và chẳng có thái độ cầu nguyện.

Tại vườn Ghết-sê-ma-nê, Chúa Giê-xu cũng đối diện với một toán lính hùng hậu có đầy đủ khí giới để bắt Ngài. Thay vì ẩn mình thì Chúa Giê-xu đã chọn đối diện họ bằng giọng nói đầy mạnh mẽ và uy quyền. Hình ảnh hiên ngang, can đảm của Chúa khi đối diện với kẻ thù để lại gương mẫu khi chúng ta gặp hoạn nạn, bắt bớ. Cũng không ít lần, tôi kinh nghiệm những điều ấy khi nhóm lại thờ phượng Chúa, khi ra đi rao giảng Lời Ngài. Đe doạ dễ lắm làm chúng ta sợ hãi, thối lui,… Nhưng khi hết lòng tin cậy và cầu nguyện với Chúa, tôi thêm lòng can đảm và nhớ lại lời Chúa trong I Phi-e-rơ 3:15 “nhưng hãy tôn Đấng Christ, là Chúa, làm thánh trong lòng mình. Hãy thường thường sẵn sàng để trả lời mọi kẻ hỏi lẽ về sự trông cậy trong anh em, song phải hiền hòa và kính sợ.” Tôi mềm mại trả lời và giải thích. Thật tạ ơn Chúa, tại những nơi trước đây bị bắt bớ, khó khăn thì giờ đây lại là những nơi thuận tiện lập sự nhóm lại, là những nơi Chúa ban phước và công việc Ngài được phát triển.

Tại Ghết-sê-ma-nê, Chúa Giê-xu không nghĩ về chính mình, không tự bảo vệ mình nhưng Ngài nhìn các môn đồ và nghĩ đến họ. Vì họ đang lo lắng, bối rối và sợ hãi,… Ngài tình nguyện để cho quân lính bắt Ngài. Và bởi hành động của Ngài, các môn đồ được bình an, vô sự. Quả thật, ngay trong giờ phút nguy hiểm, Chúa Giê-xu vẫn yêu thương và bảo vệ các môn đồ của Ngài. Ngài lo cho họ và giữ cho họ được bình an. Chúa không hề quên một ai trong chúng ta, là con dân của Ngài. Đức Chúa Giê-xu đã từng phán: “Ấy để được ứng nghiệm lời Ngài đã phán: Con chẳng làm mất một người nào trong những kẻ mà Cha đã giao cho Con” (Giăng 18:9). Những người mà Đức Chúa Cha giao phó cho Chúa Giê-xu sẽ không một ai bị lạc mất, vì chính Chúa Giê-xu chở che, bảo vệ họ.

Suy niệm về Ghết-sê-ma-nê, nơi Chúa cam chịu muôn vàn thống khổ, chiến đấu với nỗi cô đơn và những điều sắp xảy ra. Ngài bị bắt nhưng vẫn luôn quan tâm đến các môn đồ Ngài. Chúa có đủ uy quyền để tự cứu mình nhưng Ngài không chọn con đường riêng của Ngài. Ngài chọn con đường vâng phục ý của Đức Chúa Cha. Suy nghĩ đến sự hy sinh của Ngài vì cớ tội lỗi của chính tôi và của nhân loại, sự cảm thương Chúa trong tôi, lòng biết ơn Chúa dâng trào.

Chúa không nghĩ đến chính Ngài! Vậy sao chúng ta không học theo gương Chúa, sống vì tha nhân? Chúa không chỉ muốn chúng ta biết ơn Chúa qua sự thờ phượng, ca ngợi Chúa mà Ngài còn luôn muốn chúng ta chia sẻ tình yêu Ngài đến cho tha nhân, là những người đang sống trong tình cảnh nô lệ của tội lỗi, bị xiềng xích bởi quyền lực của Satan. Chúa muốn chúng ta quan tâm những người trong gia đình, trong cộng đồng chúng ta đang sống, nơi chúng ta làm việc, Chúa muốn chúng ta giải cứu họ và Ngài muốn chúng ta học gương hy sinh của Ngài, dù bị thiệt thòi về vật chất hay tinh thần cũng cam chịu để cứu tội nhân ra khỏi sự chết đời đời.

Xin Chúa luôn dẫn mỗi chúng ta vào vườn Ghết-sê-ma-nê để nhìn xem Ngài, để có mối tương giao mật thiết với Ngài trong thái độ tỉnh thức, để cầu nguyện, để khỏi sa vào chước cám dỗ. Xin Chúa giúp chúng ta dự phần với Ngài trong sự cộng tác, quan tâm và chia sẻ niềm tin cho mọi người dầu phải hy sinh nhiều phương diện.