Duyệt bởi
Category: NGHIÊN CỨU – DƯỠNG LINH – LỜI CHỨNG

Bài 8: Tại sao phải cầu nguyện?

Bài 8: Tại sao phải cầu nguyện?

 

 

 

Xin đọc Kinh Thánh Ma-thi-ơ 7:7,8:

Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.  Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở.

 

Đây là một câu Kinh Thánh rất lạ vì do chính Chúa Giê-xu nói ra, và lời Chúa không bao giờ sai lạc mà rất chân thật, chúng ta vẫn tin như thế. Nhưng dường như trong thực tế thì khác. Chúng ta đều tin là cầu nguyện hiệu nghiệm. Chúng ta ai cũng biết cầu nguyện mang lại ý nghĩa nào cho cuộc đời chúng ta. Thế mà tại sao chúng ta không cầu nguyện? Vấn đề đơn giản chỉ có thế mà thôi.

Nhiều câu trả lời được đưa ra cho câu hỏi “Tại sao chúng ta không cầu nguyện?”.

Thí dụ như:

Cuộc sống quá bận rộn và vội vã, không sao có thời gian cầu nguyện.

Có nhiều điều không xứng đáng xẩy ra trong đời sống nên không dám cầu nguyện.

Ngày nay nhiều chương trình TV hấp dẫn đã thay thế cho giờ yên tĩnh cầu nguyện trong gia đình hay của cá nhân.

Có người bảo, tôi không cầu nguyện vì tôi ít đức tin.

Người khác nói, tôi không cầu nguyện vì không biết cách cầu nguyện.

Có người nghĩ rằng họ không có điều gì để mà phải cầu nguyện.

Có người còn dám bảo, chúng tôi có đầy đủ mọi thứ mình muốn nên chưa cần cầu nguyện.

 

Thảm kịch tai hại là đa số không muốn cầu nguyện và không nếm trải được sự thỏa nguyện khi cầu nguyện, vì đây là kinh nghiệm của những ai tin Chúa và kính yêu Ngài.

 

Thật ra cầu nguyện dành riêng cho những ai có cuộc đời phiêu lưu mạo hiểm.  Nghĩa là không có đầu óc phiêu lưu mạo hiểm thì sẽ không thích cầu nguyện.

Nhiều người trên đời cho rằng hễ còn sống là thỏa mãn rồi.

Có câu chuyện về một người đã về hưu, già nua và lẩm cẩm.  Mỗi ngày ông ra lấy tờ báo, mở trang cáo phó xem có tên ông ta không.  Nếu không thấy tên ông ta, thì lại lên giường nằm ngủ tiếp cả ngày.

Nhiều người có cuộc sống tương tự như thế, nghĩa là không có giấc mơ nào, không có hy vọng nào, cũng chẳng có ao ước hay trông mong gì. Người ta mở cuộc thăm dò thì thấy rằng chín phần mười những người được phỏng vấn không có một kế hoạch nào cho đời sống của họ. Cứ mặc cho dòng đời trôi chảy, sao cũng được. Và như thế họ không thấy cần phải cầu nguyện.

Ngược lại, có người tin Chúa từng nói rằng:

Tôi không chọn làm một người tầm thường. Nếu có thể được, tôi muốn sống khác thường. Tôi luôn tìm cơ hội và dịp tiện, chứ không tìm cuộc sống an ninh. Tôi muốn liều lĩnh một chút, tôi mơ ước và muốn xây dựng lên một cái gì, khi thất bại, lúc thành công. Tôi ưa thách thức trong đời sống và thèm chờ mong thành công đến cho mình.

Người nói như thế là người cần cầu nguyện.

Một người khác cả đời sống nhờ cầu nguyện đã nói:

Kế hoạch của ta cho sự nghiệp và hạnh phúc phải lớn, nhiều tưởng tượng và táo bạo. Khi có mục tiêu rõ ràng và sâu xa thì thân xác và tâm hồn phải được trang bị, nó sẽ đánh thức trí óc và trí tưởng tượng sáng tạo cũng như đem ý nghĩa vào những công việc tầm thường, tiến từng bước một mỗi ngày của ta.

Chính vì vậy mà nhiều người không nhận được gì cả, vì không ao ước gì cả.

 

Chúa Giê-xu bảo: “Hãy xin…Hãy tìm….Hãy gõ” (Ma-thi-ơ 7:7).

Nhưng Chúa cũng nói: “Cha các anh em biết những gì các anh em cần, trước khi anh em cầu xin Ngài.” (Ma-thi-ơ 6:8).  Thế thì tại sao phải cầu nguyện? Là cha mẹ chúng ta cho con cái nhiều thứ chúng cần dù chúng có xin hay là không, như lương thực, y phục, giường ngủ. Nhưng cũng có những điều chúng ta cho con cái khi chúng xin, như xin đi học thêm một môn học nào đó. Cầu nguyện không phải là điều kiện để Chúa ban cho nhưng là điều kiện về khả năng và ước muốn để nhận.

 

Lòng mong ước sâu xa sẽ thúc đẩy ta Xin…Tìm…và Gõ. Ba động tự này trong nguyên văn Hi-lạp đều ở thể hiện tại và có nghĩa hành động tiếp tục.

Tức là: Tiếp tục xin đi …Tiếp tục tìm đi… và Tiếp tục gõ đi….!

 

Đời sống vừa giống lại vừa khác với khi ta trèo núi:

Giống như trèo núi là phải thường xuyên tranh đấu để tiến bước cao hơn.

Nhưng khác với trèo núi là không bao giờ ta đạt đến đỉnh cả. Đời sống ta không bao giờ đạt đến đỉnh, vì ta không lúc nào hết những đỉnh cao để chinh phục. Chừng nào ta bỏ dở không tranh đấu vật lộn nữa, ta sẽ tụt dốc, rơi xuống và chết.

 

Một người hỏi danh họa Raphael rằng: “Bức tranh nào là bức đẹp nhất của ông?” Raphael nói ngay: “Bức tôi sắp vẽ!” tinh thần như thế đã khiến Raphael trở thành danh họa.

 

Trở lại với câu Kinh Thánh: Hãy xin, hãy tìm và hãy gõ. Ta để ý đến thứ tự và ý nghĩa của mỗi chữ này.

 

Trước hết là “Hãy xin”. Đây là lời của đứa con xin cha cho một điều gì. Người  xin xác nhận là bất lực.  Đứa con không thể kiếm được hay tư cung cấp được. Như một người mù đứng ở góc phố xin cứu giúp. Người ấy chỉ xin, không đưa ra một báo đáp nào.  Đối với Chúa cũng vậy, nhiều lần chúng ta đến với Chúa chỉ để xin mà thôi. Tuy nhiên vì chúng ta là con của Chúa nên có quyền xin mà không hề hổ thẹn.

 

Thứ nhì là “Hãy tìm”. Tìm có nghĩa là xin với sự cố gắng.  Một thanh niên đi xin việc làm thì đồng thời nói về khả năng phục vụ của anh ta nữa. Nhiều điều Chúa ban cho không phải như vàng ròng, nhưng là quặng, cần phải đào từ trong lòng đất. Vàng đã có ở đó nhưng chờ đợi ta cố gắng, nỗ lực. Chúng ta không muốn sống cuộc đời như kẻ ăn xin luôn luôn.

 

Thứ ba là “Hãy gõ”. Chúa Giê-xu kể câu chuyện về một người tiếp tục gõ cửa người láng giềng lúc nửa đêm cho đến khi người ấy thức dậy và đáp ứng nhu cầu. (Lu-ca 11:5-8). Gõ cửa nghĩa là xin với cố gắng và nhẫn nại.

 

Câu chuyện về cô Florence Nightingale cho ta gương sáng về cầu nguyện. Lúc 17 tuổi, cô Florence được Chúa gọi để học trở thành y tá, và cô cũng ước mong như thế. Nhưng bà mẹ cô là một người rất thủ cựu và có thành kiến về việc phụ nữ có nghề nghiệp, không thích ngành y khoa, hơn nữa lúc ấy nam giới là người kiếm tiền cho gia đình. Florence không bỏ cuộc, nhưng tiếp tục xin, tìm và gõ, mãi cho đến khi cô 30 tuổi lời cầu xin mới được Chúa đáp ứng.

Chúa Giê-xu dạy rằng: “Hãy xin sẽ được” Nhưng không hẳn là ta sẽ được đúng điều mình xin nữa. Ta có lời hứa là một điều tốt lành sẽ ban cho khi ta xin Chúa. Nhiều khi Chúa còn cho điều tốt hơn ta xin nữa. Ta nên nhớ rằng đức tin cầu nguyện phải gồm cả tin vào tình thương và chương trình của Ngài nữa.

 

Mời quý vị đọc lại lời dạy của Chúa Giê-xu:

Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho.  Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở.

 

Mời quý vị theo lời Chúa dạy Hãy xin, hãy tìm và hãy gõ cửa, Chúa sẽ ban cho quý vị những gì quý vị đang cần. Cầu xin Chúa giúp quý vị biết Chúa nhiều hơn và hết lòng cầu nguyện, cố gắng nỗ lực cầu nguyện với lòng trông mong và nhẫn nại.  Chúc quý vị thành công.

Bài 7: Ba điều căn bản: Đức Tin, Hi Vọng và Tình Yêu

Bài 7: Ba điều căn bản: Đức Tin, Hi Vọng và Tình Yêu

 

Một trong những câu được xem là hay nhất trong toàn bộ Kinh Thánh là 1 Cô-rinh-tô 13:13

Nên bây giờ còn có ba điều này: đức tin, trông cậy và tình yêu; nhưng điều trọng hơn trong ba điều đó là tình thương.  Câu này theo bản diễn ý là: Vậy, chỉ có ba điều tồn tại: đức tin, hy vọng và tình yêu; nhưng tình yêu vĩ đại hơn cả. Một chữ trong câu này ít khi ta lưu ý trong tiếng Việt, đó là chữ “còn” hay là “tồn tại”.  Chữ này có thể hiểu là còn lại, ở lại. Như trong Lu-ca 24:29 kể lại câu chuyện Chúa đi cùng hai môn đệ về làm Em-ma-út và Ngài định đi xa hơn thì hai người nói rằng: Xin ở lại với chúng tôi; vì trời đã xế chiều hầu tối. Vậy, Ngài vào ở lại cùng họ.

 

Trong đời này mọi thứ con người tìm kiếm hay sở hữu đều là tạm thời, nếu không bị hư hỏng thì cũng lỗi thời không dùng được nữa. Y phục năm nay dùng, nhưng vài năm nữa đã trở thành sai mốt thời trang.  Kiểu xe hơi cũng trở thành cũ kỹ và của cải sẽ bị ten rét làm hư hay bị trôm cắp lấy mất đi. Thường thì đồ đạc mua về chỉ ít lâu đã thấy chán, chính vì vậy mà niềm vui sở hữu không tồn tại lâu bền. Những phước hạnh ta có trong vật chất một ngày nào đó sẽ hết, ngay đến sức khoẻ cũng suy nhược với thời gian, vẻ đẹp theo năm tháng phai tàn. Ngành nghề nào sáng chói đến đâu cũng có lúc chấm dứt. Những tiếng vỗ tay tán thưởng tài ba sẽ chìm vào dĩ vãng, nhường cho một cái im lặng lạnh lùng. Hôm nay dù quý vị có hoàn toàn thỏa mãn với cuộc đời, nhưng ngày mai quý vị sẽ không còn thỏa mãn nữa đâu.

Nhưng làm sao sở hữu được những gì tồn tại mãi mãi?

Sau khi đã dành cả đời nghiên cứu, những người khôn ngoan nhất, tài giỏi nhất trong nhân loại đã liệt kê ra ba điều ngay tầm tay của chúng ta và tồn tại mãi, đó là Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu. Những điều này không những tồn tại nhưng còn làm cho cuộc đời những người sở hữu chúng được thêm nhiều chất lượng quý giá.

 

Ta hãy xét đến niềm tin.

 

Không có niềm tin chúng ta thật sự không chắc chắn về chính mình nữa. Vì rất khó quyết định một việc gì hay làm gì nếu không có lòng tin cậy. Chúng ta sẽ không dám làm, không dám mơ ước và cũng không dám mạo hiểm. Khi không có lòng tin, ta sẽ nhìn mọi người với tia mắt hoài nghi và ngờ vực. Ta sẽ sống thiếu an vui và không có thân tình, có mặc cảm sai là mọi người đều thù ghét mình và mất hứng sống.

 

Nhưng đức tin hay lòng tin là gì?

Có nhiều định nghĩa, nhưng chính yếu có hai điều:

 

Thứ nhất, là tiếp tục tin vào một số điều, mặc dù có gì xẩy ra chăng nữa.

Xin dẫn chứng: Thí dụ như ta bị cám dỗ làm một việc dối trá. Ta có thể nghĩ về điều lợi và nói, nói dối một lần đã sao?  Nhưng ta còn tin vào những nguyên tắc về chân thật và sự thật nữa.  Đức tin trong lúc đó là nắm chặt lấy những nguyên tắc chính đáng và trung thành đối với các nguyên tắc này.

Thành tín là giữ vững điều mình đã tin, dù có gì xẩy ra.

Sứ đồ Phao-lô từng tuyên bố: “Tôi đã giữ được đức tin”  Đó là tuyên bố mà mỗi chúng ta phải nói vào lúc cuối cuộc đời. Phao-lô sống một đời khốn khổ và bị đời bạc đãi nhưng đức tin ông không suy chuyển. Trong khi đó có nhiều người vào một lúc nào đó đã chối bỏ những gì họ từng cho là cao nhất và quý nhất, nghĩa là đã bỏ đức tin.

 

Thứ hai, một phương diện khác đức tin được minh chứng khi một người phải đối diện với sự sống và biết rằng tự mình không thể rút ra được những gì quý nhất, người ấy nương nhờ vào một sự cứu giúp cao hơn. Nói cách khác, đức tin có ba điều liên quan đến Đức Chúa Trời:

 

1. Đức Chúa Trời hình thành ra thế giới này. Tin như thế nghĩa là công nhận rằng ở trung tâm của mỗi vấn đề đều có những nguyên tắc của Đức Chúa Trời.  Trong một thời gian dường như tội ác thắng thế, nhưng nên nhớ lời Chúa phán dạy: Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là đầu tiên và cuối cùng. (Khải huyền 1:8). Đức Chúa Trời là Đấng đầu tiên và cuối cùng Chúa sẽ đắc thắng.

 

2. Đức tin nghĩa là biết Đức Chúa Trời quan tâm, chăm sóc. Trong đời có nhiều khi người ta cảm thấy bị bỏ quên hay bị khước từ, lúc ấy người ta không thích sống nữa.  Nhưng đức tin tin rằng Chúa nhìn thấy ta và săn sóc mỗi người.

 

3. Một điểm nữa về đức tin là không phải Chúa chỉ thấy chúng ta từ nơi xa xôi, nhưng Chúa còn làm việc chung với chúng ta nữa. Nói như thế không có nghĩa là mọi việc xẩy ra đều theo ý Chúa. Vì có nhiều sự việc ngăn cản ý Chúa, nhưng Chúa vẫn hoạt động và Ngài sẽ thắng ở lúc cuối cùng.

 

Sứ đồ Phao-lô nói rằng đức tin sẽ tồn tại, mặc dù hoàn cảnh cuộc đời có ra thế nào.

 

Điều thứ hai cũng sẽ tồn tại là hi vọng.

 

Hy vọng là một từ to lớn vĩ đại, nhưng nhiều khi chúng ta nói như thể ước vọng mà thôi. Ta hay nói, Mong là ngày mai không mưa, hoặc là Mong bạn có ngày nghỉ hè vui vẻ, hay Tôi mong mọi việc sẽ trở nên tốt lành cả.

 

Nhưng hy vọng lớn hơn là ước mong.  Đó là một mong đợi chắc chắn đặt cơ sở trên những điều căn bản với những hoạt động chắc chắn. Hy vọng không bao giờ thay thế cho suy nghĩ chín chắn và làm việc hết lòng. Ngược lại, hy vọng dẫn người ta đến chỗ suy tư và hành động. Căn bản của hy vọng là tin Chúa. Thi Thiên dạy: Hỡi linh hồn ta, vì sao ngươi sờn ngã và bồn chồn trong ta? Hãy trông cậy nơi Đức Chúa Trời; ta còn ngợi khen Ngài nữa; vì nhờ mặt Ngài, bèn được cứu rỗi. (Thi-thiên 42:5).

 

Một vị mục sư từng nói rằng: Một câu xúc phạm nặng nhất, và đáng lên án là nói về một người nào rằng: Kẻ ấy thật vô hy vọng.  Vì khi nói như thế khác nào ta đóng cửa sầm lại ngay trước mặt Chúa vậy.

 

Khi ta nản lòng, khi cuộc đời thật đen tối, khi kế hoạch của ta thất bại, thì ta có thể có ba cách nhìn.

 

Thứ nhất là cách nhìn của người dại dột.  Người ấy sẽ nói:

“Việc này vô hy vọng, vì thế tôi bỏ cuộc”;

“Việc tôi làm tôi không thích, kiếm việc khác.”;

“Việc này làm tôi xuống quá, tôi kiếm việc mới.”;

“Hôn nhân của tôi nản quá, tôi phá bỏ.” ;

“Tôi không thể đối đầu với tình trạng này, tôi bỏ chạy.”

Đó là cách nhìn và thái độ của người dại. Người ấy luôn luôn muốn bỏ cuộc và không bao giờ hy vọng.

 

Thứ hai là cách nhìn của người hay nghi ngờ. Cách nhìn này khá hơn cách của người dại dột, nhưng cũng không tốt hơn. Người này cho rằng mọi thứ đều sẽ hư hỏng.

“Tôi chỉ gặp may đó thôi.”

“Đời tôi không có gì là vui cả, tôi phải hết sức chịu đựng đó thôi.”

Người như thế không hi vọng gì nhiều vì cậy cũng không bao giờ bất mãn hoàn toàn.

 

Thứ ba là cách nhìn với hy vọng. Hoàn cảnh dĩ nhiên là có thể làm cho bất mãn và khó khăn, nhưng người có hy vọng mong chờ ánh mặt trời sau cơn giông bão.  Chúa ban cho chúng ta đôi tai để nghe vì có âm nhạc để nghe.  Người tin Chúa tin tưởng như vậy. Người ấy cũng tin rằng Chúa tạo ra đôi mắt vì có những cảnh đẹp để ta ngắm nhìn. Chúa cũng tạo ra khả năng hy vọng vì có một cái gì đẹp hơn, tốt hơn ở phía trước kia, và nếu ta cứ đi tới, ta sẽ gặp. Cùng với đức tin, hy vọng cũng sẽ không bao giờ chết cả.

 

Vậy, chỉ có ba điều tồn tại: đức tin, hy vọng và tình yêu; nhưng tình yêu vĩ đại hơn cả.

Chúng ta đã nói đến đức tin và hy vọng, bây giờ xin nói về tình yêu.

So với đức tin và hy vọng thì tình yêu quan trọng hơn cả. Tình yêu duy trì một đời sống. 1 Cô-rinh-tô 13 là một chương sách định nghĩa đầy đủ về tình yêu. trước tiên ông nói những gì không phải là tình yêu.

Tình yêu không phải là tài nói hùng hồn hay giỏi ngoại ngữ, cũng không phải khôn ngoan tiên đoán cả tương lai, mà cũng không phải là biết đủ loại tri thức. Tình yêu không phải là đức tin có khả năng vận chuyển những việc to lớn, mà cũng không phải ân tứ hi sinh phục vụ nhân loại.

Sau đó tác giả 1 Cô-rinh-tô 13 mới nói đến phẩm tính của tình yêu.  Đó là: Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhơn từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,  chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ,  chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật….

Có người nói rằng trong Kinh Thánh Tân Ước có ba nhân vật vĩ đại, đó là Chúa Giê-xu, ông Ê-tiên và sứ đồ Phao-lô.

Khi chịu khổ hình trên thập giá, Chúa Giê-xu cầu nguyện rằng: Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết mình làm điều gì…( Lu-ca 23:34).

Khi Ê-tiên bị ném đá, ông cũng cầu rằng: Lạy Chúa, xin đừng đổ tội này cho họ! (Công vụ 7:60).

Còn sứ đồ Phao-lô gần đến ngày bị hành quyết, đã nói: Tôi cầu xin Đức Chúa Trời đừng kết tội họ…

Đó là những mẫu mực về thương yêu trong kiên nhẫn chịu đựng và tha thứ.

Khi tình yêu diễn tả bằng kiên nhẫn và tha thứ thì đó là nghĩa cử. Vì trong đời có nhiều người kiên nhẫn nhưng chỉ là cam chịu chứ không biểu lộ thương yêu tha thứ là đức tính thánh thiện. Tình yêu không khép kín thụ động, nhưng lấy thiện lành trả cho ác độc.

 

Sứ đồ Phao-lô còn dạy thêm về tình yêu.

Tình yêu không ganh tỵ. Khi có ai được điều gì tốt lành thì người có tình yêu chung vui với người ấy.

Tình yêu không khoe khoang nghĩa là không tự phụ và muốn hơn người. Vì những tính khoe khoang hay ganh tỵ biểu lộ tính tự ty mặc cảm. Tình yêu có thể diễn tả là:

 

Chiụ khổ mà không than trách;

Bị hiểu lầm mà không giải thích;

Cho đi mà không nhận lại;

Bị bỏ quên mà không buồn;

Hỏi mà không đòi;

Thương yêu dù bị hiểu lầm;

Đến với Chúa xin bảo vệ;

Chờ đợi Chúa ban thưởng hơn là người đời.

Tình yêu còn được mô tả là:” chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật.” Đó là những điều tiêu cực.

Tiếp theo là bốn điều tích cực của tình yêu: ” Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.

Bốn điểm quan trọng là: Khoan dung, tin cậy, hy vọng và chịu đựng.

Thứ tự tác giả sắp xếp các đức tính này rất quan trọng: Khoan dung và chịu đựng gần giống nhau, nhưng giữa hai điều này tác giả xen vào tin cậy và hy vọng. Hai tính này làm cho việc khoan dung và chịu đựng trở thành nghĩa cử của tình yêu.

Tin cậy và hy vọng là những hành động trong tương lai. Tình yêu xác nhận là thực sự có đau khổ, nhưng bên kia đau khổ tình yêu nhìn thấy một cuộc đắc thắng.

Tình yêu là một sức mạnh sáng tạo, có thể phát sinh thiện lành ra từ ác dữ, ngay cả sự sức mạnh cứu chuộc ra từ thập giá tác hại. Tình yêu xét cho cùng vĩ đại hơn đức tin và hy vọng vì tình yêu bao gồm cả hai đức tính kia mà còn thêm vào nhiều đức tính khác nữa.

Bài 6: Cầu Nguyện Và Sự An Tĩnh Trong Tâm Hồn

Bài 6: Cầu Nguyện Và Sự An Tĩnh Trong Tâm Hồn

 

 

Ê-sai 26:3 dạy rằng: Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài. Sự bình yên trọn vẹn trong câu Kinh Thánh này chính là sự an tĩnh trong tâm hồn. Sự yên tĩnh trong tâm hồn là một điều sở hữu trong đời mà ai cũng ước ao. Nó quý hơn của cải và tài sản, vì nhiều khi những thứ này làm mất yên tĩnh trong tâm hồn nhiều hơn là đảm bảo.

 

Một người cha thường đi làm về rất khuya sau khi lái xe hàng trăm cây số. Khi về nhà thì con cái đã ngủ hết. Ông thường ghé vào phòng con, để thấy những đứa trẻ nằm ngủ an lành. Tiếng ngáy nho nhỏ đều đều trong đêm yên tĩnh. Ông cảm thấy tâm hồn hoàn toàn yên tĩnh. Ông nghĩ, làm sao người lớn dường như không còn được hưởng những giây phút yên tĩnh ấy nữa, vì cuộc đời càng ngày càng trở nên phức tạp hơn và nhiều nỗi lo lắng hơn.

 

Người lớn phải suy nghĩ đến kế sinh nhai, đến những món nợ phải trả, và còn lo lúc về già sống như thế nào. Chúng ta lo về nan đề của thế giới, chính trị, kinh tế, xã hội v.v. vì những năm sau này ảnh hưởng đến mỗi người trên hành tinh. Đó là chưa nói đến những cuộc giao tiếp trong xã hội, những sai lầm mình đã gây ra và hối tiếc. Một số đông người còn phải lo lắng cho sức khoẻ của mình và những người thân yêu. Làm thế nào có được yên tĩnh trong tâm hồn khi mà trí óc bị dồn chứa bao nhiêu là vấn đề như thế?

 

Phương cách để có được sự yên tĩnh trong tâm hồn được ghi trong câu Kinh Thánh kể trên, đó là “Để tâm trí nương dựa nơi Chúa” Muốn làm như thế, ta cần chuẩn bị như thế nào?

 

Trước tiên, muốn có được yên tĩnh trong tâm hồn thì phải dốc đổ tâm hồn ra. Ta không thể có yên tĩnh trong tâm hồn nếu tâm trí ta bị bao nhiêu thứ chiếm hữu. Mỗi buổi tối trước khi vào bàn ăn, chúng ta phải rửa tay cho sạch, như thế thì bữa ăn mới ngon được. Ước gì tâm trí ta cũng được dốc đổ như thế và tâm trí cũng sạch như hai bàn tay đã rửa vậy.

 

Một vị Mục sư viết về đề tài An Bình Trong Tâm Trí, nói rằng ông bị đám đông vây lấy ông để xin cầu nguyện cho được bình an. Người ta gởi thư cũng nhiều, điện thoại reo không ngừng. Người ta đến văn phòng ông làm việc đã đông, nhưng còn kéo về nhà riêng của ông nữa. Ông là Mục sư còn trẻ mới có 38 tuổi. Ông hết sức giúp cho mỗi người và tận tâm đến nỗi sinh bệnh, ông chết lúc 41 tuổi. Nhưng trước khi qua đời, ông nói: “Tôi ngạc nhiên vì vô số người chưa bao giờ học cách dốc đổ tâm hồn ra.”

 

Một ông kia có một thói quen là đi làm việc ở sở nhưng về nhà buổi tối lại đem tất cả nan đề trong việc làm ra nói. Bữa ăn nào cũng kể hết chuyện này đến chuyện kia, sau đó còn nói cho vợ con nghe nhiều về người này hay người nọ, những người làm cho ông khó chịu hay là tạo chướng ngại cho ông. Ông đem các nan đề này vào giường ngủ nữa, thành ra tối nào cũng khuya mới ngủ được.

 

Một hôm ông nhận ra là mình có thói quen xấu là đem chuyện ở sở về nhà bàn, nên lập một kế hoạch. Ông quyết tâm: “Đêm nay ta sẽ để mọi nan đề dưới bực thềm bước vào nhà, không đem chúng vào nhà nữa. Sáng mai thức dậy ta sẽ lấy chúng đem theo vào sở.” Làm một quyết định như thế không dễ đâu, vì phải kỷ luật lắm mới thực hiện được. Nhưng phần thưởng vô cùng lớn. Đó là mỗi ngày vợ con ông không phải nghe những câu chuyện bất mãn mà họ không hiểu. Ông ăn bữa ăn hào hứng ngon miệng hơn, thăm hỏi vợ con nhiều hơn và thấy gia đình thật ấm cúng. Giấc ngủ cũng ngon hơn và nhiều hơn. Nhưng phần tốt nhất theo ông là, sáng ngày hôm sau khi bước ra cửa, ông làm như nhặt lấy những nan đề đã để lại ngoài ấy hồi hôm, thì thấy rằng các vấn đề đó không nặng nề và gay gắt như hôm qua, một số vấn đề còn biến đi đâu mất nữa.

 

Người tin Chúa không được dạy là để nan đề ngoài cửa nhà, nhưng “Hãy trao gánh nặng ngươi cho Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ nâng đỡ ngươi.” Thi Thiên 55:22. Đó là trong Kinh Thánh Cựu Ước, trong Kinh Thánh Tân ước 1 Phi-e-rơ 5:7 dạy: “Lại hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Chúa, vì Ngài hay săn sóc anh em.”

 

Có người sẽ hỏi: Nhưng trao gánh nặng hay những điều lo lắng cho Chúa là làm gì, đi đâu, trao ở đâu? Gánh nặng thật ra ở trong tâm hồn ta chứ không phải một vật thể nào. Vì thế việc cầu nguyện phải đặt ra. Có người cầu nguyện một ngày hai lần, nhiều người chẳng cầu nguyện gì cả. Nhưng mỗi khi có vấn đề, lời Kinh Thánh khuyên ta rằng hãy đến với Chúa mà cầu nguyện.

 

Ta sẽ nói gì với Chúa? Ta có thể mở Kinh Thánh đọc những câu vừa trích trên đây và hướng tâm hồn về Chúa. Bạn còn nhớ mấy bài đầu về phương pháp cầu nguyện chúng ta có nói đến thái độ đón nhận, tập trung tư tưởng vào Chúa và tôn thờ Chúa. Lúc ấy ta tạm quên nan đề của mình mà chỉ nghĩ đến Chúa thôi. Lúc đầu bạn thấy có vẻ như không thực tế, nhưng nếu bạn nhớ lời Chúa dạy: Không có gì bất khả năng đối với Chúa và bạn hết lòng tin Chúa, bạn sẽ có được sự yên tĩnh trong tâm hồn và tiếp tục sống. Nên nhớ rằng, không có thế lực nào có thể làm mất niềm an tĩnh đó, kẻ cả nan đề hay gánh nặng mà bạn tưởng mình đang bị đè bẹp.

 

Bạn nhớ rằng khi đã trao gánh nặng cho Đức Giê-hô-va thì phải để yên Chúa hành động, đừng than phiền với vợ con hay bè bạn. Vì họ không thể làm gì cho bạn hơn Chúa được. Bạn cũng không nên làm khổ họ, mà nên nở nụ cười, nói chuyện và hỏi han về họ. Bữa cơm tối với vợ con sẽ đầm ấm hơn và ngon hơn. Hạnh phúc là khi ta thấy tâm hồn mình hoàn toàn yên tĩnh, vì đã hướng lên Chúa mà tôn thờ. Niềm an tĩnh đó sẽ lây lan đến người khác và họ sẽ cảm nhận sự có mặt của Chúa trong buổi tối hôm ấy.

 

Tuy nhiên bạn cũng phải thực tế giải quyết vấn đề, nếu nguyên nhân là từ nơi bạn. Chúa không chịu trách nhiệm về những lỗi lầm bạn gây ra, bạn chính là người phải nhận lỗi, xin lỗi, làm hòa và tha thứ. Một điều mà chúng ta luôn luôn biết là vi phạm của mình. Vi phạm đó có thể là một câu nói không đúng chỗ, một cử chỉ kiêu ngạo vô lễ, một việc làm xấu xa mà bạn vẫn lên án v.v.

 

Lúc nào bạn cũng biết rõ việc sai trái đó, nhưng cố tình làm ngơ hoặc là tưởng ai cũng quên hết. nhiều người chỉ vướng vào những chuyện nho nhỏ như nói một lời không thật, lấy một vật hay một món tiền nhỏ, mượn ai vật gì không trả, nói xấu với ác ý hay tố cáo sai lạc v.v.

 

Châm ngôn 28:13 dạy rằng: Người nào giấu tội lỗi mình sẽ không được may mắn; Nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót. Xưng nhận tội đối với Chúa và đối với người là một cách tạo niềm yên tĩnh trong tâm hồn.

 

Như thế bạn nhận thấy rằng cuộc đời nhiều khi rất đơn giản mà ta tưởng phức tạp. Vì đa số những nan đề xẩy ra là khi người là không kính thờ và tôn trọng Chúa, lại cũng kiêu ngạo không hạ mình nhận lầm lỗi. Khi nào những vết nhăn được làm nhẵn, những khúc quanh co được dẫy phẳng thì con đường sẽ ngay thẳng và Chúa sẽ được vinh quang.

 

Xin nhắc lại một vài điểm mà bạn cần nhớ để có niềm an tĩnh trong tâm hồn, đó là phải thực hành việc dốc đổ tâm hồn, phải loại trừ những điều ngăn cản, một thói xấu, một việc làm vô nghĩa chẳng hạn, phải hạ mình xưng nhận tội phạm và sẵn lòng tha thứ. Trên tất cả, phải bắt đầu với câu: Lạy Cha chúng con ở trên trời…chứ không phải liệt kê ra hàng loạt những nan đề và đòi hỏi Chúa giải quyết.

 

Thư 1 Giăng 5:14,15 ghi: Nầy là điều chúng ta dạn dĩ ở trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin việc gì, thì Ngài nghe chúng ta. Nếu chúng ta biết không cứ mình xin điều gì, Ngài cũng nghe chúng ta, thì chúng ta biết mình đã nhận lãnh điều mình xin Ngài.

Câu Kinh Thánh này dạy chúng ta mấy điểm sau đây:

Chúa nghe chúng ta khi chúng ta theo ý Chúa cầu xin

Ý thức rằng cầu xin thì Chúa nghe vì vậy biết rõ điều mình xin Chúa đã nhận,

 

Dĩ nhiên là cầu nguyện phải có đức tin, như chúng ta đã học, vì không có đức tin đến Chúa thì chẳng bao giờ tiếp cận được với Ngài và cũng chẳng bao giờ nhận được điều gì từ nơi Chúa. Điều gì mà chúng ta đang nói đến đây không phải vật chất, nhưng là niềm yên tĩnh trong tâm hồn là điều mà trần thế này không có gì có thể đổi lấy được.

 

Một công ty thương mãi bỗng bị thua lỗ vì hàng bị ế ẩm. Người quản lý gọi tất cả nhân viên bán hàng lại và hỏi mỗi người về nan đề của họ. Mỗi người đều thành thật nói về những vần đề họ gặp và những lý do tại sao hàng khó bán. Người quản lý lúc đó lấy ra một tấm bìa lớn màu trắng để trước mặt mọi người rồi hỏi xem họ thấy gì. Ai cũng nói là thấy một tấm bìa lớn màu trắng.

 

Sau đó người quản lý cầm một chiếc bút chì rất nhọn, và vẽ một chấm đen trên tấm bìa trắng đó. Rồi hỏi từng người xem họ thấy gì trên tấm bìa. Mọi người đều nói một chấm đen trên bìa trắng. Người ấy bảo mọi người ngồi xuống rồi nói: Đó là vấn đề của các anh em. Khi một chấm đen xuất hiện thì các anh chỉ chú ý đến chấm đen ấy mà không quan tâm đến phần bìa màu trắng bao la rộng rãi kia. Trong nghiệp vụ thương mãi này cũng vậy các anh chú trọng quá nhiều vào một vài khó khăn nhỏ mà không thấy khả năng toàn bộ.

 

Trong cuộc sống cũng vậy. Hầu hết mỗi chúng ta đều sống vui vẻ và hạnh phúc. Nhưng thỉnh thoảng cũng có những chấm đen xuất hiện. Không ai sống trong đời mà hoàn toàn không đau buồn, bất mãn và thất bại. Nhưng nhiều khi chỉ vì chú tâm vào những việc này mà niềm vui và yên tĩnh trong tâm hồn bị mất đi. Châm ngôn 23:7 ghi rằng: Vì hắn tưởng trong lòng thể nào, thì hắn quả thể ấy. Nghĩa là, những gì ta suy nghĩ là yếu tố quan trọng nhất quyết định cuộc đời mình sẽ ra thế nào.

 

Một bà đến với mục sư than thở về những ưu tư của bà mỗi ngày và nhất là khi bà tắt đèn lên giường ngủ. Bà cứ trằn trọc và trăn trở mãi cho đến khi mệt lả rồi ngủ lúc nào không hay. Sáng dậy bà thấy mệt rã rời và đầu óc bối rối. Mỗi đêm bà ấy đã mất đi cái êm đềm quý giá của gíấc ngủ ngon.

 

Mục sư hỏi xem thường ngày bà ấy thích cái gì nhất, thì bà nói là hoa. Bà thích trồng hoa và cắm hoa nổi tiếng, từng chiếm giải cắm hoa đẹp nữa. Nhất là hoa hồng. Mục sư đề nghị đêm hôm ấy, sau khi vào giường, bà hãy mường tượng ra trong óc một cái bàn với hai chục bông hồng bày trên đó, một nửa là hoa đỏ, nửa kia là hoa trắng. Ở giữa bàn có một chiếc lọ cắm hoa thật đẹp và bà tưởng tượng đang lấy từng cành hoa cắt và cắm vào lọ. Bà có thể nghĩ ra nhiều kiểu cắm hoa mà bà cho là đẹp nhất. Bà nghe lời vị Mục sư và tối hôm ấy đi ngủ sớm, suy nghĩ sắp xếp ý nghĩ như mục sư chỉ dẫn. Không ngờ việc đơn giản đó đã giúp bà ấy trở lại cuộc sống được yên tĩnh trong tâm hồn.

 

Sứ đồ Phao-lô từng dạy trong thư Phi-líp 4:8 rằng: Rốt lại, hỡi anh em, phàm điều cho chơn thật, điều chi đáng tôn, điều chi công bình, điều chi thánh sạch, điều chi đáng yêu chuộng, điều chi có tiếng tốt, điều chi có nhân đức đáng khen, thì anh em phải nghĩ đến. Thay vì hoa hồng, ta có thể nghĩ đến những điều hay đẹp hoặc các việc làm hữu ích khác cho mình, cho người khác và cho Chúa nữa.

 

Muốn có yên tĩnh trong tâm hồn nhiều người còn cố thuộc những bài thánh ca nữa. Thay vì lo nghĩ lung tung và tiêu cực, hãy mở Thánh ca tìm những bài hát hay, hát đi hát lại cho thuộc một vài câu. Những khi gặp khó khăn, hãy yên lặng nhẩm đọc những câu Kinh Thánh hữu ích hay hát Thánh Ca, quý vị sẽ thấy tâm hồn được yên tĩnh. Thí dụ như bài hát Như Ý Cha chẳng hạn, lời như sau:

Nguyện lối đi được sáng soi.

Cuộc sống hôm nay hay tương lai thuận ý Cha.

Cầu xin Chúa dẫn lối mỗi ngày, dạy con biết sống giữa cảnh đời,

Dù giông tố sóng gió thay dời, con vững tin.

 

Việc khắp nơi thuận ý Cha.

Cuộc sống nơi đây nay ra sao đừng quá lo.

Việc ta thấy trước mắt mỗi ngày, đều theo đúng thánh ý an bài

Ngày mai ý nghĩa sẽ tinh tường như ý Cha.

 

Quỳ kính dâng lời chúc tôn.

Quyền Chúa bao la trên không gian nào đổi thay.

Nguyện dâng tiếng nói của tâm hồn, lời yêu mến khúc hát ân tình

Được tươi mới thắm thiết trong lành như ý Cha.

 

Nhiều người thường học thuộc lòng Thi Thiên 23 và cả bài hát để khi muốn cho tâm hồn yên tĩnh thì đọc thuộc hay hát lên Thánh ca Thi Thiên 23 mà đa số anh em Tin Lành đều quen thuộc.

Bài 5: Thực Hành Ý Chúa

Bài 5: Thực Hành Ý Chúa

 

 

Một trong những nan đề của việc cầu nguyện là tìm ý Chúa.  Trong hai bài trước chúng ta đã có dịp bàn về: Học biết Ý Chúa và Các điều kiện để làm theo ý Chúa, hôm nay chúng ta sẽ nói đến việc tuân hành hay thực hành ý Chúa.

 

Tìm ra ý Chúa đã khó, nhưng thực hành ý Chúa mới chính là nhiệm vụ của chúng ta. Nan đề không phải là không biết ý Chúa, nhưng là không có quyết tâm làm theo điều mà chúng ta tin rằng Chúa muốn ta thực hiện. Nhiều người không chịu làm theo ý Chúa vì bảo rằng Chúa làm tất cả, vì Ngài là Đấng Chủ Tể, một mình Ngài làm cho sự việc xảy ra được. Hay nói rằng, vì Chúa muốn như thế thì Ngài sẽ thực hiện theo ý Chúa. Dĩ nhiên là nhiều lần trong đời chúng ta phải khoanh tay mà nói rằng: “Việc này tôi phải trao vào tay Chúa thôi !”

 

Nhưng sự thực là: Làm theo ý Chúa không mấy khi dễ và không phức tạp. Vì nhiều khi chúng ta không hiểu Chúa đưa mình đi đâu và phải thuận theo ý Chúa, nghĩa là bẻ cong ý mình cho hợp ý Chúa. Thường khi chúng ta vật lộn và tranh chấp giữa ý Chúa và ý tôi. Một ngày kia khi chúng ta gặp Chúa thì khác, nhưng bây giờ chúng ta vẫn phải bằng lòng hay chống, đẩy hay kéo.

 

Tưởng tượng như bạn đang lái xe trên đường phố và đến một xa lộ có bảng chỉ đường ghi:

Đồng Nai và có hai tấm bảng nhỏ hơn, một tấm đề Đông và một tấm đề Tây. Bạn phải quyết định đi về hướng Đông Đồng Nai hay hướng Tây Đồng Nai. Bạn không thể đi cả hai được, vì chỉ có một hướng đưa bạn đến nơi mà bạn định đi mà thôi.

 

Như trường hợp tiên tri Giô-na.  Chúa truyền cho ông: Hãy đi Ni-ni-ve, hãy rao sứ điệp của ta cho kinh thành ấy. Ni-ni-ve là kinh đô của nước A-si-ri. Giô-na không ưa Ni-ni-ve vì đó là nơi đất lạ, đầy dẫy thần tượng và rất tàn bạo. Giô-na vẫn có thể theo lệnh Chúa đi Ni-ni-ve hay không đi. Sau khi lý luận, Giô-na xoay hướng và đi Ta-rê-si.

 

Nhưng Chúa không bỏ Giô-na. Chúa đưa đến một số trở ngại trên hải trình của Giô-na như bão biển làm con thuyền gần chìm và Giô-na bị con cá nuốt gần chết. Các khó khăn này cho Giô-na một dịp khác để làm theo ý Chúa. Giô-na được con cá nhả ra trên bờ biển và Chúa lại truyền cho ông đi Ni-ni-ve, lần này ông vâng lời.

 

Một nhân vật khác cũng vật lộn với ý Chúa và ý mình là bà Sa-ra, vợ ông Áp-ra-ham. Chúa hứa cho ông bà một đứa con, nhưng qua nhiều năm bà vẫn chưa mang thai. Chờ mãi không được bà Sa-ra nghĩ ra một giải pháp, bảo Áp-ra-ham ngủ với người nữ tỳ của bà là A-ga để có con. Đây là một quyết định rất dại dột và trái với ý Chúa. Khổ nỗi là Áp-ra-ham chiều theo ý vợ. Kết quả là Ích-ma-ên ra đời. Từ đó đến nay dòng dõi Ích-ma-ên và dòng chính Israel tiếp tục tranh giành đất đai để sống, và chiến trận giữa hai bên hiện tại cũng giết hại nhiều sinh mạng.

 

Để giải quyết vấn đề theo ý mình và vâng theo ý Chúa ta phải xét đến chuyện điều chỉnh. Các việc điều chỉnh này quan hệ tới suy tư riêng, hoàn cảnh, quan hệ, những cam kết, hành động và cả niềm tin nữa. Đây là quyết định quan trọng vì ta không thể vẫn ở nơi mình và cùng một lúc lại quyết định đi với Chúa được.

 

Quyết định thuận theo ý Chúa đòi hỏi nhiều về đức tin.  Hê-bơ-rơ 11:6 nhắc rằng: Vả, không có đức tin, thì chẳng có thế nào ở cho đẹp ý Đức Chúa Trời; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài. Đức tin theo câu Kinh Thánh này là tin Đức Chúa Trời là Đấng đã xưng Ngài là ai, và sẽ làm điều Ngài phán rằng Ngài sẽ làm.  Đức tin là vâng lời Chúa khi ta vẫn không chắc về kết quả.  Đức tin là tin cậy Chúa khi con người của ta đòi hỏi phải có bằng chứng, phải chứng minh rõ, phải thấy cụ thể.

 

Chúa muốn chúng ta bước đi bằng lòng tin, không do thấy được, trong khi đó thì chúng ta muốn được thấy trước, thấy sau, thấy đầy đủ chung quanh nữa. Chúng ta muốn bảo đảm, muốn bằng chứng.

 

Chúa ưa khi chúng ta tin cậy nơi Chúa mà không cần một bức tranh toàn diện trước mắt mình. Tin cậy Chúa không đảm bảo là việc sẽ dễ và đơn giản. Nhưng sống ngoài ý Chúa có thể rất khó khăn. Đôi khi chúng ta không rõ ý Chúa như thế nào nhưng biết rằng ở nguyên tình trạng của mình là không đúng chương trình của Chúa. Chúng ta lại trở về cái gọi là huyền nhiệm của ý Chúa.

 

Rất may, Chúa có cho chúng ta nhiều gương sáng của những người đã sống bởi đức tin, không do mắt thấy. Họ chính là những mẫu người có đức tin và hành động.

 

Sau đây là một số vấn đề khi ta thực hành sống với ý Chúa. Ta sẽ căn cứ vào bốn trường hợp ghi lại trong thư Hê-bơ-rơ chương 11.

 

1.  Tuân hành ý Chúa có thể gây khó chịu cho người khác.

 

Hê-bơ-rơ 11:4 ghi: Bởi đức tin, A-bên đã dâng cho Đức Chúa Trời một tế lễ tốt hơn của Ca-in, và được xưng công bình, vì Đức Chúa Trời làm chứng về người rằng Ngài nhậm lễ vật ấy; lại cũng nhờ đó dầu người chết rồi, hãy còn nói.

 

Ca-in và A-bên là hai con trai của A-đam và Ê-va. A-bên làm nghề chăn cừu còn Ca-in làm nông. Cả hai đem tế lễ đến dâng Chúa. Ca-in đem quả trái và ngũ cốc còn A-bên lựa những con cừu tốt nhất đem đến dâng. Tương phản của hai lễ vật không ở chỗ một bên là thực vật bên kia là sinh vật, nhưng ở chỗ lễ dâng không chuẩn bị kỹ, không chú ý cẩn thận, còn bên kia lựa chọn và hết lòng. Động cơ thúc đẩy và thái độ dâng rất là quan trọng.  Chúa nhậm lễ vật của A-bên vì đức tin của người này. Nhưng Ca-in giận vì Chúa nhậm lễ vật của người em mà không nhận của anh ta, nên đã đang tay giết A-bên.

 

Nhiều khi thực hành ý Chúa ta bị gia đình khó chịu, giận dữ. Có khi gia đình sinh ra sức ép hay nói năng những lời cay độc, hoặc có ác ý đối với ta. Nhưng ta phải lựa chọn giữa làm theo ý Chúa và làm vừa ý người. Chúng ta không muốn gây bất hòa, vì vậy phải có thái độ hạ mình và khiêm tốn để tạo niềm vui trong gia đình.

 

Nếu ta là cha mẹ, thì việc làm theo ý Chúa cho hôn nhân của con cái, ta chỉ có trách nhiệm hướng dẫn, còn quyết định là của các đương sự. Nhiềm vụ chính của bậc làm cha mẹ đối với con là:

 

1. Dạy con cẩn thận cho chúng nên người.  Và 2. Buông chúng khỏi tay chúng ta hoàn toàn, vì chúng phải tự quyết định cho cuộc đời của chúng. Con cái khi khôn lớn sẽ được cha mẹ trợ giúp nhưng họ phải tự lập. Một thái độ đúng của cha mẹ là luôn cầu xin Chúa hướng dẫn con cái vì chính chúng ta cũng không thể quyết đoán những chuyện đúng sai.

 

2. Tuân hành ý Chúa có thể đưa đến kết quả bất ngờ.

 

Nhân vật thứ hai mà ta quan sát là ông Hê-nóc.  Tác giả thư Hê-bơ-rơ viết: Bởi đức tin, Hê-nóc được cất lên và không hề thấy sự chết; người ta không thấy người nữa, vì Đức Chúa Trời đã tiếp người lên. Bởi chưng trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Đức Chúa Trời rồi.(Hê-bơ-rơ 11:5).

 

Trong Sáng Thế Ký 5 chúng ta biết được Hê-nóc 65 tuổi có con trai là Mê-tu-sê-la, và từ đó Hê-nóc “đi với Chúa”. Ông đi với Chúa trong suốt 300 năm, và “Hê-nóc đồng đi cùng Đức Chúa Trời rồi mất biệt, bởi vì Đức Chúa Trời tiếp người đi.” Hê-nóc hưởng thọ được 365 năm. 365 năm kể là lâu đối với hiện đại, nhưng vào cổ thời, chết lúc 365 là chết trẻ, vì con Hê-nóc là Mê-tu-sê-la sống đến 969 năm.  Hê-nóc coi như được Chúa cất đi lúc còn trẻ tuổi.

 

Trong thế kỷ 20 có nhiều câu chuyện về những người làm theo ý Chúa được Chúa cất đi rất trẻ. Câu chuyện xẩy ra vào thập niên 1950 khi năm thanh niên tên là Jim Elliott,  Nate Saint, Roger Youderian, Ed McCully và Peter Fleming theo sự hướng dẫn của Chúa đến truyền giáo cho bộ tộc Da-đỏ người Auca trong rừng thuộc nước Ecuador. Người Auca không hiểu thiện chí của họ đã giết chết cả năm giáo sĩ trẻ tuổi này. Nhiều năm sau bà Elisabeth vợ của anh Elliott và Rachel Saint em của anh Nate Saint đã đến vùng này, sống chung với thổ dân và truyền giáo cho họ, cứu chính những người đã giết chết chồng và anh của họ.

 

Câu chuyện vừa kể về năm thanh niên truyền giáo bị chết tại vùng bộ tộc Auca đã trở thành gương sáng cho hằng nghìn thanh niên khác trên khắp thế giới vâng lời Chúa đi truyền giáo cho nhiều bộ tộc dã man trên mặt đất này.  Nhưng vào lúc họ bị giết chết, không ai có thể lý giải vì sao.

 

3.  Tuân hành ý Chúa có thể bị bách hại

 

Nhân vật thứ ba ta rút ra từ Hê-bơ-rơ 11:7 là Nô-ê, xin đọc: Bởi đức tin, Nô-ê được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian, và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy.

 

Nô-ê trước cơn đại hồng thủy là “Thầy giảng đạo công chính” (2 Phi-e-rơ 2:5) và “được ơn trước mắt Đức Giê-hô-va.” (Sáng 6:8).  Từ khi Chúa bảo cho Nô-ê biết là sẽ có cơn nước lụt hủy diệt toàn thế gian đến khi cơn mưa đầu tiên rơi xuống đất là 120 năm (nghĩa là hơn một đời người), Nô-ê đóng tàu và chờ đợi cuộc trừng phạt của Chúa. Sáng thế ký 6:5-8 ghi: Đức Giê-hô-va thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng họ chỉ là xấu luôn;  thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn rầu trong lòng. Đức Giê-hô-va phán rằng: Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng nên, từ loài người cho đến loài súc vật, loài côn trùng, loài chim trời; vì ta tự trách đã dựng nên các loài đó. Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va.

 

Lúc ấy Nô-ê hoàn toàn khác với mọi người và nghe được tiếng gọi từ nơi Chúa và nhận được sứ điệp về cơn đại hồng thuỷ. Nô-ê vâng theo ý Chúa, do đức tin tuân hành đóng tàu trong suốt 120 năm. Đóng một chiếc tàu khổng lồ ngay trên đất khô chắc chắn bị mọi người cho là điên dại. Hơn nữa lúc đó chưa có mưa và nước từ dưới đất ngấm lên. Nô-ê vừa đóng tàu vừa giảng truyền về Chúa cho mọi người và việc Chúa sẽ trừng phạt loài người, nhưng chẳng ai nghe ông, mọi người đều chống đối và chê cười. Bài học tại đây là: Khi làm theo ý Chúa ta đừng mong mọi người đều chấp nhận vì ta đã chọn bước đi với Chúa bằng đức tin, mà mọi người không hiểu.

 

Vào thế kỷ 14 tại Đại học Oxford nước Anh có một vị giáo sư thần học chỉ vì đức tin, thi hành ý Chúa mà bị coi là dụng cụ của ma quỷ, tác giả của tà đạo. Tên người là John Wycliffe, một học giả lỗi lạc đương thời nhận thấy giáo dân hồi ấy hoàn toàn không biết đến Kinh Thánh mà chỉ nghe lời dạy của các chức sắc trong giáo hội, nên đã quyết tâm phiên dịch Kinh Thánh từ nguyên văn Hê-bơ-rơ và Hi-lạp ra tiếng Anh để phổ biến. Việc làm trong nhiều năm này của người đã bị mọi giới đương thời phản đối và ông bị lên án là tà đạo.  Khi hoàn tất công việc dịch toàn bộ bản Kinh Thánh ra tiếng Anh, John Wycliffe đã viết ở trang giấy phía trước cuốn Kinh Thánh đó rằng: “Quyển Kinh Thánh này đã được phiên dịch và sẵn để sử dụng cho một chính quyền của dân, do dân và vì dân.”

 

Ba mươi năm sau khi John Wycliffe mất giáo hội vẫn còn tuyên bố ông là tà đạo.  Xác ông bị khai quật, xương bị thiêu cháy và tro bị rải trên sông.  Một sử gia đương thời đã viết về vụ này như sau: Người ta thiêu cháy xương của Wycliffe, tro rải trên dòng suối tên là Swift gần đó. Con suối này đưa tro của Wycliffe ra sông Avon, sông Avon dẫn đến sống Severn, và sông này chảy ra biển. Và như thế tro của John Wicliffe làm biểu tượng cho tín lý của ông, và ngày nay đã thấm dầm toàn thế giới.

 

4.  Tuân hành ý Chúa là từ bỏ chỗ quen thuộc để đến chỗ không ai biết.

 

Hê-bơ-rơ chương 11 cho ta hình ảnh Áp-ra-ham là người đã làm việc đó. Chương 11 câu 8-10 ghi: Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp: người đi mà không biết mình đi đâu. Bởi đức tin, người kiều ngụ trong xứ đã hứa cho mình, như trên đất ngoại quốc, ở trong các trại, cũng như Y-sác và Gia-cốp, là kẻ đồng kế tự một lời hứa với người. Vì người chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập.

 

Áp-ra-ham cả đời sống ở U-rơ thuộc xứ Canh-đê, như tổ tiên của ông. Thế rồi đến năm 75 tuổi, Đức Chúa Trời bảo ông từ bỏ nơi quê hương đó đi đến một nơi mà Chúa sẽ chỉ cho. (Sáng 12). Ta nên nhớ rằng Áp-ra-ham lúc ấy còn mang tên Áp-ram, đã già và bà vợ Sa-rai kém ông 10 tuổi cũng kể là tuổi cao.  Hai vợ chồng đang sống rất sung túc, không có con, nhưng gia nhân rất đông. Áp-ram vâng lời Chúa và một hôm ra lệnh cho gia đình chuẩn bị lên đường đi xa.  Mọi người tuân lệnh, nhưng không biết đi đâu, vì chính Áp-ram cũng không biết. Áp-ram vì tuân theo ý Chúa mà phải rời khỏi nơi quê hương ấm cúng quen thuộc để đến một nơi chưa biết là phương nào.

 

Nhiều người đọc Hê-bơ-rơ 11:8 mà chưa hiểu hết ý: Người đi mà không biết mình đi đâu. Nhưng đọc cho đến câu 10 thì ta có thể nói thêm rằng, …nhưng người đi cùng với Chúa.

 

Như thế làm theo ý Chúa còn có một điều kiện là làm với Chúa.  Bạn không cô đơn khi tuân hành ý Chúa đâu, lúc nào cũng có Chúa đi cùng và cùng làm việc với bạn.

 

Chúng ta phải tìm ra ý Chúa và tuân hành, nhưng nên nhớ rằng tất cả sẽ đưa chúng ta vào một cuộc khủng hoảng trong niềm tin và chúng ta phải thực hành đức tin trong hành động.

 

Vâng theo lời dạy của Chúa và vui làm theo ý Chúa đòi hỏi nhiều thay đổi hay điều chỉnh cho phù hợp. Ta phải từ bỏ và chấp nhận liều lĩnh, bỏ nơi dễ dàng êm ấm để buông vào tương lai chưa rõ rệt.  Đó là tuân hành ý Chúa.

 

Càng đi với Chúa bao lâu ta càng nhận ra rằng chúng ta thực sự không biết ngày mai sẽ có gì xẩy ra.  Một cú điện thoại kêu vào lúc nửa đêm có thể làm tan hết không khí an bình yên lặng của ta.

 

Nhưng làm theo ý Chúa dù phải tranh đấu, vật lộn, bên trong con người chúng ta, sâu kín trong linh hồn ta, có một ước mong nhìn thấy Chúa đang mỉm cười, ta đón chờ phần thưởng của Chúa ban và niềm vui vâng theo ý Chúa để được đắc thắng. Trong đời không có kinh nghiệm nào quý hơn và thỏa lòng hơn. Vì khi ta làm cho Cha trên trời thỏa mãn, thì đó là hạnh phúc thiên đàng.

 

Chúng ta là loài người giới hạn.  Chúng ta chỉ thấy hiện tại và nhớ về quá khứ, tương lai hơi làm cho ta sợ. Vì thế ta nên nắm chặt lấy tay Chúa và tin rằng Chúa sẽ ban an bình và ta tiếp tục sống trong tình thương vô cùng huyền nhiệm của Chúa.

Bài 4 : Các Điều Kiện Để Theo Ý Chỉ Của Chúa

Bài 4 : Các Điều Kiện Để Theo Ý Chỉ Của Chúa

 

Một trong những câu hỏi thường nghe trong vòng các tín hữu là: Làm sao tôi tìm được ý chỉ của Chúa cho cuộc đời của tôi? Câu hỏi này làm cho nhiều người nghĩ ra nhiều phương pháp để đưa đến những kết luận rất khác thường.

 

Thí dụ như một sinh viên thần học sắp ra trường và không biết sẽ làm gì, một hôm anh ta lái xe ngang qua tòa đại sứ Phi-líp-pin thì bị kẹt xe dừng lại khá lâu, anh ta liền cho rằng đó là dấu hiệu Chúa bảo anh ta phải đi làm giáo sĩ cho Phi-líp-pin.

 

Một phụ nữ đang do dự không biết có nên tham gia một chuyến thăm viếng xứ thánh Israel hay không.  Bà ấy đọc kỹ tập quảng cáo về cuộc du hành Israel và thấy rằng du khách sẽ bay bằng máy bay 747. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đồng hồ hiện số đề 7:47, bà cám ơn Chúa và cho rằng đó là Chúa cho bà đi Israel.

Nhiều người còn có những sáng kiến rất mê tín dị đoan khác nữa rồi cứ gán cho là Chúa mặc khải hay ý Chúa.

 

Sau đây là một số điều có thể giúp cho quý độc giả hiểu ý Chúa và làm theo ý Chúa:

 

 

  1. Muốn biết ý Chúa thì đầu tiên bạn phải là một người tin Chúa. Rô-ma 8:14 dạy rằng:“Vì hết thảy kẻ nào được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dắt dẫn, đều là con của Đức Chúa Trời.”

 

Khi bạn tin nhận Chúa Giê-xu là Chúa và chủ của đời bạn thì Thánh Linh đến ngự trong tâm hồn. Thánh Linh có nhiều nhiệm vụ nhưng một trong các việc Thánh Linh làm là giải bày ý chỉ của Đức Chúa Trời cho bạn. Người nào thật sự tin nhận Chúa mới có Thánh Linh hiện diện trong tâm hồn và chúng ta phải có Thánh Linh hướng dẫn để có thể biết ý Chúa và làm theo.

 

 

  1. Muốn biết ý Chúa cũng cần phải khôn ngoan.  Ê-phê-sô 5:15-17 dạy:Vậy, hãy giữ cho khéo về sự ăn ở của anh em, chớ xử mình như người dại dột, nhưng như người khôn ngoan. Hãy lợi dụng thì giờ, vì những ngày là xấu.  Vậy chớ nên như kẻ dại dột, nhưng phải hiểu rõ ý muốn của Chúa là thế nào.

 

Trên đây chúng ta đã nói đến vài trường hợp có thể gọi là dại dột xẩy ra khi người ta giải mã ý chỉ của Chúa theo ý mình và sai lạc. Chúa dạy chúng ta phải khôn ngoan, sử dụng thời gian cho đúng và không sai lạc. Tuy nhiên phải dùng khôn ngoan, lý luận vững chãi để hiểu cho rõ ý muốn của Chúa sao cho không trái tự nhiên mà đúng lương tri.

 

  1. Muốn biết ý Chúa phải xét kỹ xem có thực sự muốn làm theo ý Chúa hay không? Giăng 7:17 dạy:Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta. Từ khứng trong câu này nghĩa là muốn. Khi muốn biết ý Chúa thì cũng phải có ngay quyết định tuân hành.

 

Trong Ê-phê-sô 6:5-6 sứ đồ Phao-lô dạy: Hỡi kẻ làm tôi tớ, hãy run sợ, lấy lòng thật thà mà vâng phục kẻ làm chủ mình theo phần xác, như vâng phục Đấng Christ, không phải vâng phục trước mặt người mà thôi, như các ngươi kiếm cách làm đẹp lòng người ta, nhưng phải như tôi tớ của Đấng Christ, lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời. Trong phần Kinh Thánh này sứ đồ Phao-lô đang dạy về bổn phận của tôi tớ đối với chủ, nhưng ông cũng nhân đó nói về bổn phận của tín đồ của Chúa. Phần cuối của câu 6 dạy rằng: Lấy lòng tốt làm theo ý muốn Đức Chúa Trời hay là hết lòng làm theo ý muốn Chúa là điều rất quan trọng. Chúng ta muốn biết ý Chúa, nhưng cũng phải có quyết tâm làm theo ý muốn Chúa thì mới mong thành công được.

 

 

  1. Muốn biết ý Chúa còn phải sẵn sàng cầu nguyện và chờ đợi nữa. Ma-thi-ơ 7:7-8 dạy: Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Bởi vì, hễ ai xin thì đượ; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở. Mặt khác thư 1 Giăng 5:14-15 dạy thêm: Nầy là điều chúng ta dạn dĩ ở trước mặt Chúa, nếu chúng ta theo ý muốn Ngài mà cầu xin việc gì, thì Ngài nghe chúng ta. Nếu chúng ta biết không cứ mình xin điều gì, Ngài cũng nghe chúng ta, thì chúng ta biết mình đã nhận lãnh điều mình xin Ngài.

 

Biết được ý Chúa và tuân hành theo nhiều khi đòi hỏi quá trình dài và đau đớn nữa. Nhiều khi ta làm điều trái ý Chúa vì lý luận theo ý mình, lúc đó phải hạ mình để Thánh Linh dẫn dắt và bằng lòng thuận phục, Nên nhớ rằng khi Chúa đã có định ý thì dù ta không muốn hay không chịu tuân hành, Chúa cũng sẽ thực hiện chương trình của Ngài. Cầu nguyện nhưng đừng vội quyết định, phải biết lắng nghe và chờ đợi Chúa.  Nhiều người bằng lòng cầu nguyện và chờ đợi đã chứng nghiệm rằng Chúa thương và cho tuân hành theo ý Chúa.

 

  1. Làm theo ý Chúa nghĩa là phải quyết tâm từ bỏ những gì theo ý mình.  Công Vụ 20:22-24 ghi lại câu chuyện của sứ đồ Phao-lô như sau: Kìa, nay bị Đức Thánh Linh ràng buộc, tôi đi đến thành Giê-ru-sa-lem, chẳng biết điều chi sẽ xảy đến cho tôi ở đó; duy Đức Thánh Linh đã bảo trước cho tôi rằng từ thành nầy sang thành khác dây xích và sự hoạn nạn đương đợi tôi đó.  nhưng tôi chẳng kể sự sống mình là quí, miễn chạy cho xong việc đua tôi và chức vụ tôi đã lãnh nơi Đức Chúa Jêsus, để mà làm chứng về Tin Lành của ơn Đức Chúa Trời.

 

Trong các câu Kinh Thánh này sứ đồ Phao-lô nói về việc Thánh Linh truyền lệnh cho ông là ràng buộc. Nghĩa là bắt buộc phải theo chứ không có ý kiến. Chúng ta thấy ý muốn của Chúa dành cho Phao-lô là ông sẽ gặp nhiều hoạn nạn chống đối, nhưng Phao-lô đã quyết tâm coi mạng sống mình không quan trọng bằng việc tuân hành ý chỉ của Chúa.

 

Chúng ta cũng phải có tinh thần như Phao-lô.  Chúng ta đang tham gia vào một cuộc đua, chúng ta là khách bộ hành. Mục đích của chúng ta là phải chạy cho đến đích, đi cho trọn hành trình, dù cho gặp nhiều thử thách và khó khăn. Có khi phải từ bỏ nhiều thứ và điều chỉnh cuộc sống cho thích hợp với ý Chúa.

 

Như thế chúng ta thấy rằng cần có những điều kiện trước khi chúng ta biết ý Chúa và làm theo. Nhưng dù cho chuẩn bị đầy đủ tất cả, vẫn phải nhớ rằng Chúa có đường lối của Ngài và nhiều khi ta cần phải hiểu rõ. Câu hỏi đặt ra là: Ngày nay Chúa dẫn dắt người của Chúa như thế nào?  Đây là phần mà nhiều độc giả sẽ chú ý vì có thể áp dụng thực tế được.

 

Chúng tôi xin vắn tắt liệt kê ra bốn phương cách căn bản mà Chúa thường áp dụng:

 

  1. Trước tiên và căn bản nhất là Chúa hướng dẫn chúng ta qua Lời Kinh Thánh.

Vì như tác giả Thi Thiên đã nói: Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi. (Thi Thiên 119:105). Lời Chúa trong Kinh Thánh nhiều khi khuyên dạy, ra lệnh và cảnh cáo chúng ta.

 

Các câu như: Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, đừng làm ô uế chốn loan phòng, vì Đức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ gian dâm và kẻ ngoại tình. (Hê-bơ-rơ 13:4). Hay là: Hãy tránh phạm tội tà dâm, tương đương như tấm bảng ghi tốc độ giới hạn cho xe chạy trên đường trường.

 

Có khi lời dạy tổng quát như Phi-líp 4:7: Bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi hiểu biết, sẽ gìn giữ lòng và ý tưởng anh em trong Đức Chúa Jêsus Christ.

 

Câu này như tấm bảng cảnh cáo tài xế trên đường trường là “Lái xe cẩn thận”

 

Có nhiều lời cảnh cáo trong Kinh Thánh nhưng Chúa thường đưa ra những nguyên tắc cho ta theo. Các nguyên tắc này đòi hỏi phải khôn ngoan và biết phân biệt kỹ lưỡng.

 

Thường thì khi bạn bí không biết hỏi ý kiến nơi nào, hãy tìm vào Lời Kinh Thánh, chắc chắn bạn sẽ được chỉ đạo tốt. Kinh Thánh không bao giờ dẫn bạn đi lạc. Tuy nhiên bạn cũng đừng sử dụng Kinh Thánh như kiểu ngày xưa người Việt hay bói Kiều.  Tức là lấy quyền Kiều ra rồi mở đại một trang, rồi đọc những câu nào đó đã nói trước và nhờ đó mà cho là ứng vào việc mình đang tìm.  Đó là phương pháp mê tín dị đoan và không trung thực.

 

  1. Chúa hướng dẫn chúng ta qua Thánh Linh ngự trong tâm hồn.

 

Phi-líp 2:12-13 ghi: Ấy vậy, hỡi những kẻ rất yêu dấu của tôi, như anh em đã vâng lời luôn luôn, chẳng những khi tôi có mặt mà thôi, lại bây giờ là lúc tôi vắng mặt, hãy càng hơn nữa, mà lấy lòng sợ sệt run rẩy làm nên sự cứu chuộc mình. Vì ấy chính Đức Chúa Trời cảm động lòng anh em vừa muốn vừa làm theo ý tốt Ngài.

 

Câu “làm nên sự cứu chuộc mình” không có nghĩa là ta phải làm gì cho được cứu, vì Chúa đã làm tất cả rồi, ta chỉ cần tin mà thôi.  Trong câu này có nghĩa là ta cần suy nghĩ, biện biệt thật rõ khi tuân hành ý chỉ của Chúa, vì Đức Thánh Linh cảm động lòng chúng ta để có ý muốn và năng lực làm theo ý Chúa. Câu 14 còn thêm: Phàm làm việc gì chớ nên lằm bằm và lưỡng lự, Khi ý thức rằng Thánh Linh thôi thúc ta hành động, thì đừng ngần ngại chần chờ mà phải quyết định dứt khoát, mặc dù có thách thức và giá phải trả. Khi được Chúa hướng dẫn như thế không được phàn nàn hay oán thán, mà hoàn toàn vâng phục cũng như sứ đồ Phao-lô vậy.

 

Khi Thánh Linh cảm động thì ta có được một ý thức về sự dẫn dắt của Chúa khác hẳn với cái mà người ta thường nói là cảm thấy tốt.

 

Dĩ nhiên là ta không thể cầu nguyện mà không hoạch định chương trình. Ta vẫn phải đặt kế hoạch, suy nghĩ cân nhắc, nghiên cứu tìm hiểu mọi khía cạnh của vấn đề.  Nhưng khi làm việc như vậy phải biết lắng nghe tiếng Chúa phán dạy qua Thánh Linh. Nghĩa là xem thử Chúa đang hoạt động ở đâu và tiếp tay với Ngài.

 

Thi Thiên 32:8 dạy rằng: Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải đi; Mắt ta sẽ chăm chú ngươi mà khuyên dạy ngươi.

 

Châm ngôn 20:24 cũng ghi: Các bước của loài người do nơi Đức Giê-hô-va nhứt định; Vậy, loài người hiểu đường lối mình sao được?

 

Sự hướng dẫn của Chúa rất huyền nhiệm, và nhiều khi ta không hiểu, nhưng có thể kinh nghiệm.

 

  1. Chúa hướng dẫn chúng ta qua sự cố vấn của những người khôn ngoan, có khả năng và đáng tin cậy.

Đây không phải là những người thuộc giới ngoại cảm hay chuyên môn tiên tri bói toán, nhưng là những người tin Chúa, trưởng thành, có khôn ngoan, đáng tin cậy, và đủ tư cách làm cố vấn về một vấn đề nào đó. Những người này cho ý kiến nhưng không có thành kiến và không phải là những người có quan hệ gia đình với ta. Những người cố vấn tốt là người cho ý kiến có lợi cho ta và vinh danh Chúa. Những người như thế thường khách quan, lắng nghe ta nói, và trả lời chậm trãi. Thường thì những người ấy không trả lời khi ta hỏi, vì phải suy nghĩ đắn đo trước khi trả lời.

 

  1. Sau cùng, Chúa đưa chúng ta vào ý Chúa bằng cách ban cho một đảm bảo an bình trong tâm hồn.

Cô-lô-se 3:15 ghi: Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể; lại phải biết ơn. Chính sự an bình này là trọng tài trong tâm hồn ta. Khi nào ta cảm thấy an bình đó thay vì những chướng ngại, những khó khăn thì ta biết ý Chúa đã được nên.

 

Nhiều khi ta nghĩ rằng ý Chúa rất xa vời trong lý thuyết, nhưng ý Chúa rất hiện thực. Nghĩa là chúng ta phải thực hiện ý Chúa ngay trong đời thường.

 

Làm theo ý Chúa tức là đến chỗ vật lộn với đức tin, là khi ta phải quyết định. Làm theo ý Chúa là đi đến một quyết định.  Quyết định đó đòi hỏi đức tin và hành động. Nghĩa là ta không thấy cái kế thúc mà chỉ tin cậy và tiến bước. Nghĩa là ta phải tin và làm.

 

Tưởng tượng Môi-se gặp khó biết mấy khi phải bước bước chân đầu tiên xuống biển Đỏ. Ông có đức tin nhưng phải bước xuống biển Đỏ, phải hành động.  Khi ông đụng chân xuống biển thì Chúa mới mở đường dưới biển như đất khô cho ông và toàn dân Israel đi qua.

 

Xin nêu lên hai câu hỏi mà người tìm ý Chúa phải trả lời:

 

Nếu phải theo ý Chúa thì:

  1. Bạn phải bị thiệt hại gì hay khó khăn nào hơn cả?
  2. Bạn có bằng lòng thay đổi cuộc đời, vì biết đó chính là ý Chúa cho mình hay chăng?

Trả lời dứt khoát hai câu hỏi này là có thể tiến bước được.

Bài 3: Học Biết Ý Chúa

Bài 3: Học Biết Ý Chúa

 

 

 

 

 

 

 

 

Học Biết Ý Chúa

Có người đã cho rằng câu hỏi sâu xa nhất của nhân lọai gồm tóm trong hai chữ ngắn đó là: “Why I ?” Nghĩa là “Tại sao lại tôi?”. Người ta có thể đặt câu hỏi này dưới nhiều hình thức, nhưng dường như câu hỏi này đã nằm trong tâm trí mỗi người. Cho đến khi nào ta đặt câu hỏi này và tìm ra câu giải đáp thì đời sống mới có ý nghĩa đích thực cho ta.

 

Tôi cho rằng có người chưa bao giờ đặt câu hỏi này và cứ sống tự nhiên, không mục đích mà cũng không chủ trương gì.  Sống như sinh vật, nghĩa là ăn những gì có và tìm đến những gì làm thỏa mãn nhu cầu. Nhưng con người bao giờ cũng phải có lý do đề sống, vì thế mới đặt ra câu hỏi: “Tại sao lại tôi?”

 

Chúa Giê-xu trong Phúc Âm Giăng 17:4 đã nói với Đức Chúa Trời rằng: “Con đã tôn vinh Cha trên đất, làm xong công việc Cha giao cho làm.” Lời nói này cho thấy rằng Đức Chúa Trời đã có một chương trình rõ rệt cho cuộc đời của Chúa Giê-xu, Chúa Giê-xu biết rõ chương trình ấy và Ngài đã theo đúng mà hành động. Đối với Chúa Giê-xu đã thế,  đối với mỗi chúng ta cũng vậy. Không ai có mặt trên đời này ngẫu nhiên cả, Đức Chúa Trời có kế hoạch cho mỗi cuộc đời, đó là điều chắc chắn.

 

Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho mỗi chúng ta khả năng chọn lựa và tự do quyết định. Chúa Giê-xu cầu nguyện trong vườn Ghết-sê-ma-nê rằng: “…tuy nhiên không theo ý con mà xin theo ý Cha.” Lu-ca 22:42. Lời cầu nguyện này dạy ta hai điều quan trọng:

 

Thứ nhất: Một người có thể có quyết định cho đời mình khác hẳn với quyết định của Chúa dành cho mình.

Thứ hai: Một người có thể theo ý riêng hành động và quay lưng lại quyết định của Chúa dành cho mình.

 

Mỗi chúng ta đều đối diện với cùng một lựa chọn.

Có câu chuyện kể rằng một người kia rất là giỏi, ai muốn hỏi câu gì ông ta cũng trả lời đúng hết. Một hôm có chú bé tìm cách sập bẫy ông ta. Nó cầm trong tay một con chim nhỏ còn sống rồi hỏi người ấy: “Thưa ông, con chim trong tay cháu sống hay là chết.” Nó định là khi ông khôn ngoan nói con chim chết thì nó sẽ buông tay cho con chim bay đi.  Còn nếu ông ta nói con chim sống, thì nó sẽ bóp con chim cho chết đi rồi mở tay ra cho thấy con chim chết.

 

Nhưng người khôn ấy không nhìn vào tay đứa bé, trái lại ông nhìn thẳng vào mắt nó rồi nói: “Bé ơi, còn tuỳ theo cháu muốn đó thôi!”

 

Cuộc đời mỗi chúng ta cũng vậy. Chúng ta ước muốn thế nào thì sống như thế – sống theo ý Chúa hay sống theo cách nào khác còn tuỳ ý chúng ta lựa chọn.

 

Ngay cả khi chúng ta cầu nguyện bằng lòng tin rằng: “Xin thánh ý Chúa được nên,” chúng ta vẫn chưa giải đáp câu hỏi: “Tại sao lại con?” Ý Chúa cho cuộc đời tôi là gì? Nhiều người nêu lên câu hỏi đó, người khác cho rằng làm sao biết ý Chúa được?

Lời Kinh Thánh dạy: “Phàm trong các việc làm của con khá nhận biết Chúa thì Ngài sẽ chỉ lối cho con.” Châm Ngôn 3:6.

 

Làm thế nào Chúa cho chúng ta biết ý của Ngài?

 

1.  Thật ra Chúa đã làm rất nhiều điều để chỉ đạo cho chúng ta từ khi Ngài tạo dựng nên chúng ta. Này nhá,  chúng ta được sinh ra với một số khả năng và tài khéo và Chúa có kế hoạch cho chúng ta làm được điều mà mình có thể làm. Chúng ta cũng có thể biết ý định của Chúa bằng cách để ý đến những cơ hội hay dịp tiện của mình. Chúng ta có thể thấy rằng Chúa cung cấp dịp tiện hay cơ hội để thực hiện các mục đích của Ngài.

 

2.  Chúa thường cho chúng ta biết ý định của Ngài qua những việc làm trực tiếp của thiên hựu. Bác sĩ Albert Schweitzer là một môn đồ đắc lực của Chúa trong thế kỷ 20. Khi còn trẻ tuổi ông cố tìm một việc làm. Ông có khả năng về nhiều phương diện: ông là nhạc sĩ,  bác sĩ và có tài dạy học và trong mỗi ngành chuyên môn này ông đều là bậc thầy cả. Ông có nhiều cơ hội quá nên cũng khó lựa chọn. Chương trình của Chúa cho ông là gì?

 

Một hôm khi dọn bàn làm việc ông gặp tờ tạp chí của Hội Truyền Giáo Paris. Báo gởi cho một người trong xóm, nhưng người đưa thư đưa nhầm vào địa chỉ nhà ông. Nhìn qua tờ báo, ông thấy có bài mang tựa đề: “Nhu cầu của Hội Truyền Giáo Congo”. Ông đọc bài báo, và ngay sau đó ông nói: “Cuộc tìm tòi việc làm của tôi đã kết thúc.” Bác sĩ Schweitzer đi Congo mở một nhà thương và làm việc tại đó trong nhiều năm.

 

Người đưa thư không ngẫu nhiên mà đưa nhầm tạp chí của Hội Truyền Giáo Paris và nhà ông Schweitzer đâu. Đúng là có sự xếp đặt của Chúa cho người của Ngài.

 

Câu hỏi mà nhiều người thường đặt ra là: Làm sao tôi biết được ý Chúa cho đời tôi?

Đọc đến đây chắc bạn đã thấy hai cách:

Thứ nhất là qua việc xem xét về khả năng và tài khéo của mình với các cơ hội và dịp tiện đưa đến.

Thứ hai, qua mặc khải đặc biệt của Chúa.

 

Nhưng cũng còn các phương cách khác nữa.

Chúng ta có thể dùng phán đoán kỹ lưỡng nhất của mình.

 

Khi nói về việc tìm ý Chúa trong Kinh Thánh, một nhà thần học đã viết rằng:

“Sự chỉ đạo của Chúa trong Kinh Thánh Cựu Ước đề cập đến những chi tiết của cuộc sống mỗi ngày trong khi chỉ đạo của Chúa trong Kinh Thánh Tân Ước được diễn tả trong những mệnh lệnh và nguyên tắc tổng quát hơn.”

Vào những thời đại của Kinh Thánh, Đức Chúa Trời mặc khải ý chỉ của Ngài theo nhiều cách, nhưng đa số rõ rệt là thuộc về ba loại sau đây:

 

1.  Chúa dùng những phép lạ để cho biết ý chỉ của Ngài.

 

Trước khi có Kinh Thánh là mạc khải của Chúa cho loài người, Chúa thường dùng phép lạ để giải bày ý chỉ hay quyết định của Ngài. Thí dụ như khi muốn cho Môi-se biết ý chỉ của Ngài cho ông ta, Chúa đã dùng một bụi gai cháy. Ở vùng kế sa mạc thì bụi gai cháy không có gì lạ, nhưng bụi gai ấy cháy mà không tàn là chuyện chưa bao giờ xẩy ra. Điểm này làm cho Môi-se chú ý và lại gần để được Chúa ban mệnh lệnh. Chúa dùng phép lạ để cho biết ý định của Ngài vì lúc đó chưa có Kinh Thánh.

 

2.  Chúa phán dạy qua hiện tượng và giấc mơ

 

Chúa phán dạy Áp-ra-ham qua hiện tượng và giấc mơ, Chúa cũng cho Giô-sép những hình ảnh để phần nào biết về cuộc đời của ông ta. Chúa còn cho biết việc Ngài làm cho ông vua Ai-cập nằm mơ và cho Giô-sép giải đoán các giấc mơ đó để chuẩn bị cho một trận đói lớn trong vùng này.

Trong Kinh Thánh Tân Ước Phi-e-rơ thấy từ trên trời dòng xuống một tấm khăn chứa đủ mọi sinh vật xấu để làm đồ ăn.  Đây là những sinh vật mà Chúa cấm dân Chúa không được dùng làm đồ ăn. Khi Phi-e-rơ từ chối  thì Chúa cho ông hay là ông phải đem tin mừng giảng cho các dân tộc bị coi là xấu xa ngoài Do-thái.

 

3.   Chúa cho biết ý định của Chúa qua mặc khải trực tiếp

 

Chúa phán dạy các sứ giả của Ngài và các vị này truyền lại cho những người cần nghe. Đây là phận sự của các vị tiên tri trong Kinh Thánh thuở xưa. Ngày nay không còn các tiên tri nữa. Vị tiên tri cuối cùng là Giăng, người làm báp tem.  Lu-ca 3:1,2 ghi rằng: Năm thứ mười lăm đời Sê-sa Ti-be-rơ, khi Bôn-xơ Phi-lát làm quan tổng đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt làm vua chư hầu xứ Ga-li-lê, Phi-líp em vua ấy làm vua chư hầu xứ Y-tu-rê và tỉnh Tra-cô-nít, Ly-sa-ni -a làm vua chư hầu xứ A-by-len,  An-ne và Cai-phe làm thầy cả thượng phẩm, thì có lời Đức Chúa Trời truyền cho Giăng, con Xa-cha-ri, ở nơi đồng vắng.

 

Hơn nữa trong thư Hê-bơ-rơ 1:1,2 có ghi rõ: Đời xưa, Đức Chúa Trời đã dùng các đấng tiên tri phán dạy tổ phụ chúng ta nhiều lần nhiều cách, rồi đến những ngày sau rốt nầy, Ngài phán dạy chúng ta bởi Con Ngài, là Con mà Ngài đã lập lên kế tự muôn vật, lại bởi Con mà Ngài đã dựng nên thế gian;

Qua các câu Kinh Thánh này và nhiều câu khác nói về lời Chúa có tác dụng dạy bảo và hướng dẫn, vì thế ta có thể tìm biết ý định của Chúa qua lời Kinh Thánh và giây phút tâm giao với Chúa.

 

Mặt khác, có người nói rằng Chúa truyền cho họ những lời nào và việc gì để thực hiện, ta không nên tin nhận, vì có thể chỉ là những ước mơ của chính người đó hơn là Chúa truyền dạy. Các nhà thần học đều nhận định rằng người truyền rao Tin lành là truyền rao lời Kinh Thánh và tiếp nối công việc của Chúa Giê-xu, họ không phải là các nhà tiên tri như trong thời Kinh Thánh mà Giăng người làm báp-tem là tiên tri cuối cùng.

 

Người tin Chúa nên dùng Kinh Thánh như thẩm quyền sau cùng hướng dẫn từng bước ta đi, từng việc ta làm.  Thi Thiên 119:105 là câu ta nên nắm vững: Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, là ánh sáng cho đường lối tôi. Lời Chúa giúp cho ta suy nghĩ, nhận định và quyết định.

Bài 2: Đức Chúa Trời Rất Vĩ Đại

Bài 2: Đức Chúa Trời Rất Vĩ Đại

 

 

 

 

 

Đức Chúa Trời Rất Vĩ Đại

 

 

Đức Chúa Trời là một thần linh như tất cả các thần thánh mà người ta tôn thờ chăng? Nếu Chúa mà chúng ta kêu cầu hay tin cậy không hiệu nghiệm thì có phải vì Chúa quá nhỏ bé chăng? Nói như thế là cho rằng thần linh mà chúng ta thờ phượng rất nhỏ. Khi chúng ta nói: “Chúa của tôi”, hay xưng hô với Chúa: “Lạy Chúa…” thì ta có hàm ý gì?  Sứ đồ Phao-lô nói rằng: “Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Jêsus Christ. Phi-líp 4:19. Nghĩa là Đức Chúa Trời mà Phao-lô tin tưởng rất vĩ đại về ba phương diện:

 

1.  Chúa không bao giờ để cho ta tuyệt vọng. 

 

Phao-lô bảo: Đức Chúa Trời của tôi sẽ cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu cho anh em. Tác giả Thi Thiên, vua Đa-vít viết: Chúa là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì. Nghĩa là không có gì xẩy ra cho ta mà Chúa không thể giải quyết. Chúng ta theo dõi những người có nhu cầu đến với Chúa.  Không ai nói rằng: Chúa làm cho tôi thất vọng.  Nhưng gần như ai cũng nói: Chúa đã nâng đỡ tôi, Chúa cứu tôi.

 

Mở Kinh Thánh ra ta cũng thấy ghi lại những lời nói về sự quan phòng của Chúa. Như Thi Thiên 37:25  nhận xét: Trước tôi trẻ, rày đã già, Nhưng chẳng hề thấy người công bình bị bỏ, Hay là dòng dõi người đi ăn mày.

 

Khi Đức Chúa Trời của tôi lớn hơn các nhu cầu của tôi, có nghĩa là sợ hãi, kinh hoàng của đời tôi đã bị bỏ đi. Nói như thế không có nghĩa là đường ta đi sẽ không bao giờ có vấn đề, nhưng nghĩa là Chúa sẽ cung ứng sức mạnh và tài nguyên chúng ta cần để đối phó với hoàn cảnh. Chúa không bao giờ để cho ta thất vọng.

 

Khi nào ta thấy ai cảm thấy Chúa để cho mình thất vọng, hãy quan sát cho kỹ hơn sẽ thấy rằng người ấy hạ thấp Chúa xuống. Ma-la-chi 3:10 có lời hứa rõ ràng của Chúa về việc dâng hiến như sau: Các ngươi hãy đem hết thảy phần mười vào kho, hầu cho có lương thực trong nhà ta; và từ nay các ngươi khá lấy điều nầy mà thử ta, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi, đổ phước xuống cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng!

 

Nhưng vẫn có nhiều người không tin rằng Chúa giữ lời hứa. Chúa của họ không lớn bằng một phần mười lợi tức của họ. Câu hỏi đặt ra là: Chúa của bạn lớn không? Chúa của bạn có lớn đủ để cung ứng mọi nhu cầu của bạn chăng? Hay là bạn vẫn lo rằng hôm nay vui thế nhưng ngày mai ra sao đây?

 

Nên nhớ rằng Chúa rất vĩ đại và đủ sức mạnh để cung ứng mọi nhu cầu của bạn, Chúa không để cho bạn thất vọng đâu.

 

2.  Nhưng Chúa cũng không bao giờ chiều đãi bạn quá đâu.

 

Khi Chúa tạo dựng nên vũ trụ này, Ngài cũng đặt những luật cho vũ trụ vận hành. Như trái đất vẫn xoay quanh mặt trời và trọng lực vẫn còn duy trì.

 

Trong nhân loại cũng vậy, Chúa có những nguyên lý cho đời sống – yêu tốt hơn ghét, thánh khiết hơn tội ác, tốt lành hơn xấu xa.  Nhưng con người chúng ta dường như không thích bị những nguyên lý này ràng buộc.  Vì thế, thay vì sống  theo luật lệ của Chúa, chúng ta thu nhỏ Chúa lại cho ngang tầm với chúng ta. Nghĩa là chúng ta đi đến chỗ cho rằng Chúa quá nhỏ không làm chủ cuộc đời chúng ta được.

 

Nhiều người còn có ý niệm rằng Chúa là một vị tiên ông rất già như các chuyện thần tiên và rất xa vời với con người.

 

Ngay trong gia đình, con cái nhiều khi cũng xem cha mẹ như quá già và không còn am hỉểu sự đời như họ nữa. Người ta bảo rằng con trẻ vào lúc sáu tuổi nêu lên tất cả những thắc mắc về cuộc đời và đến 18 tuổi làm như biết tất cả các câu giải đáp. Ai cũng có một thời cho là mình khôn hơn cha mẹ, nhưng không hẳn sự thật là như thế.

 

Có người sống quá quen với tôn giáo đến nỗi không thấy quyền năng nào cả ngoài ra những uy quyền của các chức sắc trong tôn giáo. Hơn nữa với khoa học và kỹ thuật tiến bộ, người ta cho rằng vấn đề tin Chúa và quyền năng của Chúa hay phép lạ đã lùi hẳn vào quá khứ xa xôi, hay ngạo mạn hơn cho rằng “Chúa” đã lỗi thời. Thay vì tuân giữ và tôn trọng ý chỉ của Chúa, con người gạt Chúa sang một bên và tự đặt ra những quy luật và lối xử thế riêng cho mình. Nói khác đi người ta công nhận Chúa hiện hữu nhưng không ý thức về uy quyền của Ngài.

 

Chúng ta vừa nói rằng: 1.  Chúa không bao giờ để cho ta tuyệt vọng. 2. Chúa không bao giờ chiều đãi bạn quá đâu. Và

 

3. Chúa không bao giờ bỏ chúng ta.

 

Một thanh niên hư xấu vi phạm luật lệ trong nước và bị tù. Người cha thường phải bỏ ra nhiều tiền để lo trả tiền phạt cho hắn và cho hắn được tại ngoại hầu tra. Người cha bỏ ra bao nhiêu tiền bạc để cứu hắn cho đến nỗi khuynh gia bại sản.  Một người bạn bảo ông ta: “Nó mà là con tôi, tôi bỏ mặc cho nó chết!” Người cha nói: “Đúng, nếu nó là con ông thì tôi cũng bỏ mặc nó, hơi đâu mà lo. Nhưng vì nó là con tôi nên tôi không thể bỏ nó được.” Ta nên nhớ rằng Chúa là Cha của mỗi chúng ta, vì vậy mà Chúa vẫn can thiệp. Dù ta sống như thế nào, Chúa vẫn thương và tìm ta về với Ngài, đó là đức nhân từ của Chúa.

 

Chúa Giê-xu kể câu chuyện người con phóng đãng để minh chứng cho đức nhân từ của Chúa Cha. Khi đứa con muốn bỏ nhà ra đi để thoát khỏi quyền kiểm soát của cha, nó được tự do làm như thế. Thế rồi nó gặp đau khổ nghèo đói.  Nhưng người cha không đi tìm nó. Người chờ đợi ngày nó quay về. Một ngày nọ nó nhớ đến cha và quyết định quay về. Người cha đứng ở cửa chờ đợi nó và sau đó sẵn sàng cho nó mọi nhu cầu.  Đôi khi con người nói về tự do mà Chúa ban cho, như thể Chúa hoàn toàn cắt đứt mọi quan hệ với mình. Nhưng chúng ta không tự do đâu. Chúng ta không có tự do khi phải lựa chọn ăn hay không ăn. Vì cơn đói đòi hỏi chúng ta phải ăn. Chúa đã đặt cái đói vào thân xác chúng ta. Người ta có thể sống xa Chúa và không bao giờ đói khát vật chất.  Nhưng sẽ đến một lúc mà những vật chất chung quanh ta không đem lại thỏa mãn. Chúng ta có những đói khát sâu kín trong tâm linh, và những cơn đói đó chính là những giây mà Chúa dùng để trói buộc linh hồn chúng ta.

 

Chúa rất kiên nhẫn và Ngài chờ đợi. Nhưng khi Chúa chờ đợi như thế những cơn khát khao trong tâm hồn làm cho chúng ta rất bất mãn. Chúng ta chạy ngược xuôi, tìm điều này điều nọ, nhưng không gì trong đời có thể đáp ứng cho cơn khát khao này. Thế rồi chúng ta phải chạy về với Cha, là Đấng từng dạy:   Vâng, “Ta là bánh sống, ai đến cùng ta chẳng hề đói và ai tin ta chẳng hề khát.” Giăng 6:36.Chúa không bao giờ bỏ chúng ta đâu.

Bài 1: Cầu Xin có Khó Không?

Bài 1: Cầu Xin có Khó Không?

 

 

 

Cầu Xin có Khó Không?

 

Trong một hội nghị Tin Lành, bà Kate Smith được hỏi về triết lý sống của bà. Bà nói rằng cho đến nay đã cao tuổi, bà vẫn sống với chủ trương như lúc bà còn thiếu nữ và triết lý sống của bà tóm gọn trong bốn chữ: “Thử cầu xin Chúa”. Bà kể rằng một mùa hè kia bà cùng với hai thiếu nữ khác chèo thuyền trên vịnh Chesapeake. Cả ba đều trong tuổi mười mấy. Họ không để ý là thủy triều lên nhanh và kéo thuyền họ rất xa bờ trong lúc trời tối dần. Cả ba đều rất lo sợ, họ cố kêu cứu, nhưng tiếng họ kêu chẳng ai nghe. Bỗng Kate Smith nhớ lại trong Kinh Thánh có ghi rằng, khi nào có hai ba người nhân danh Chúa Giê-xu mà cầu nguyện, thì Chúa sẽ có mặt tại đó. Cô liền nói với hai bạn rằng: “Chúng ta có ba người, vậy là đúng tiêu chuẩn cầu nguyện rồi, vì Kinh Thánh nói rằng nếu có hai hay ba người hợp chung cầu nguyện thì Chúa sẽ nghe lời cầu nguyện. Chúng ta cầu nguyện đi, Chúa sẽ cứu chúng ta.” Ba cô bé liền cầu nguyện lớn tiếng trong cơn sợ hãi. Ngay sau đó họ thấy một chiếc thuyền lại gần và người trên thuyền giúp kéo họ vào bờ an toàn. Kể từ khi ấy mỗi khi gặp khó khăn, có nhu cầu, bất mãn, nói chung là trong mọi cảnh trạng của cuộc đời, triết lý của Kate Smith đơn giản là: “Thử cầu xin Chúa.”

 

Nhiều người cũng đã áp dụng cách cầu nguyện này và được Chúa thương xót ra tay cứu vớt. Chúng ta nên nhớ rằng Chúa không muốn cho con dân Chúa thất thế và đau khổ trong đời sống. Chúa Giê-xu từng nói:

 

“Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho. Bởi vì, hễ ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ cửa thì được mở. Trong các ngươi có ai, khi con mình xin bánh, mà cho đá chăng? Hay là con mình xin cá, mà cho rắn chăng? Vậy nếu các ngươi vốn là xấu, còn biết cho con cái mình các vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt cho những người xin Ngài sao?”

 

Căn cứ vào những lời hứa này, tại sao ta còn ngần ngại không cầu xin Chúa khi mình gặp khó khăn?

 

Chúng ta đọc trong Sáng thế ký, sách đầu tiên của Kinh Thánh nói về cách Chúa tạo nên trời đất. Chúa sáng tạo nên tất cả rồi Chúa tạo nên người và bảo người chế ngự mặt đất. Nghĩa là sở hữu và sử dụng đất cho lợi ích của người. Khi tôi cầu xin Chúa giúp tôi, là tôi cầu xin Chúa hoàn thành những gì mà chính Chúa đã sai bảo tôi làm. Như thế cầu xin Chúa giúp đỡ và ban phước lành không phải là làm cho Chúa bất mãn.

 

Nhưng có người nói rằng, tôi cầu xin Chúa nhưng không nhận được điều tôi xin. Trong Gia-cơ chương 4 có những lời này:

 

Anh em cầu xin mà không nhận lãnh được, vì cầu xin trái lẽ, để dùng trong tư dục mình.

 

Cũng trong chương 4 lại ghi:

Hãy đến gần Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đến gần anh em. Hỡi kẻ có tội, hãy lau tay mình, có ai hai lòng, hãy làm sạch lòng đi;

 

Gia-cơ còn dạy: Hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa, thì Ngài sẽ nhắc anh em lên.

 

Như thế bắt đầu cầu nguyện ta phải có một quan hệ thật đúng đối với Chúa, nếu không có sự bắt đầu như thế, chúng ta chỉ nói một số câu nói rồi gọi đó là cầu nguyện. Bạn tôi cho tôi một cái đèn để bàn rất đẹp. Đèn này anh ấy tự làm cho tôi và rất là tiện. Nhưng giả sử như tôi đem về nhà, vặn đèn lên nhưng đèn không sáng. Tôi có thể bảo rằng tất cả đèn điện đều là giả cả. Nan đề có thể là ở nơi cái đèn. Mặt khác đèn không sáng có thể vì tôi chưa cắm vào nguồn điện. Chung quanh tôi điện khắp nơi, nhưng khi nào tôi nối chiếc đèn của tôi vào chỗ cắm điện, thì đèn của tôi mới sáng được.

 

Cầu nguyện cũng thế. Tôi có thể dùng những lời cao sang, hay đẹp, nhưng nếu chưa nối kết với nguồn sức mạnh, thì lời cầu xin của tôi chỉ là những điều vô nghĩa. Chúa Giê-xu từng nói về một số người là: “Vả, khi các ngươi cầu nguyện, đừng dùng những lời lặp vô ích như người ngoại; vì họ tưởng vì cớ lời mình nói nhiều thì được nhậm. Vậy, các ngươi đừng như họ; vì Cha các ngươi biết các ngươi cần sự gì trước khi chưa xin Ngài. Vậy các ngươi hãy cầu như vầy: Lạy Cha chúng tôi ở trên trời; Danh Cha được thánh;” Nghĩa là, trước khi xét đến hiệu quả của lời cầu nguyện hãy xét xem mình có được kết nối với nguồn sống hay chưa.

 

Một bà có bệnh ra vùng biển để chữa bệnh. Mỗi ngày bà ngồi trên bờ biển một mình và giữa thiên nhiên bao la đó bà cố hướng tâm hồn về Chúa. Một hôm bà bỗng ý thức được cái yên lặng sâu thẳm của thiên nhiên. Yên lặng đến nỗi bà nghe được tiếng tim mình đập và bà thấy tim đập theo một nhịp điệu. Bà quay lại nhìn vào bãi cỏ gần đó, bà thấy cỏ dợn lên theo làn gió và cũng có một nhịp điệu, bà cảm thấy như hòa hợp với nhịp tim của mình. Bà nhìn ra biển và thấy sóng nhấp nhô, tràn lên bãi cát rồi rút ra xa bờ cũng theo một nhịp điệu, nhịp điệu của sóng trên cỏ xanh và nhịp điệu trong tim bà. Bà ý thức rằng bà đang hòa hợp với tự nhiên, và với Chúa là Đấng sáng tạo nên tất cả. Bà nói: “Bây giờ tôi biết rằng có một sức mạnh do đó sự sống có thể tái tạo- và mỗi chúng ta phải hòa nhịp với sức mạnh đó.”

 

Chúng ta đã nói đến điều kiện khởi đầu của việc cầu nguyện, đó là hòa nhịp hay là kết nối với Đức Chúa Trời, là Nguồn của sự sống và sức mạnh. Như thế không cần phải bật nút và tìm phước hạnh cho việc cầu nguyện, cho đến khi nào sự sống của chúng ta kết nối hoàn toàn với Chúa. Đây cũng là lý do vì sao nhiều người cầu nguyện mà không thấy hiệu quả nào.

 

Chúng ta phải cầu xin với đức tin.

Ma-thi-ơ 9:27-29 ghi câu chuyện về hai người mù được Chúa chữa lành như sau:

 

“Đức Chúa Jêsus ở đó ra đi, có hai người mù theo Ngài mà kêu rằng: Hỡi con cháu vua Đa-vít, xin thương chúng tôi cùng! Khi Ngài đã vào nhà rồi, hai người mù đến; Ngài bèn phán rằng: Hai ngươi tin ta làm được đều hai ngươi ao ước sao? Họ thưa rằng: Lạy Chúa được. Ngài bèn rờ mắt hai người mà phán rằng: Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy.”

 

Có người nói rằng: “Lý do mà chim bay mà chúng ta không bay được chỉ vì chim có đức tin hoàn toàn, vì có đức tin là phải có hai cánh.” Nghĩa là, nếu ta có đức tin ta có thể kiếm cách cho đức tin ấy thể hiện. Khi chúng ta cầu xin Chúa với đức tin, thì tức khắc chúng ta loại bỏ khỏi tâm trí chúng ta những tư tưởng thất bại hư hỏng và chúng ta bắt đầu phát triển một sự tin cậy – sự tin cậy có ba chiều.

 

1. Thứ nhất, tin cậy nơi chính mình. Một người mất quyết tâm là người đáng thương. Anh ta lùi lại trước mọi công việc, và tránh mọi cơ hội. Nhưng khi người ấy tự tin, sẽ có sức mạnh mà anh ta tưởng mình không có.

 

Mặt khác, ta phải tự nhắc mình rằng tự tin chưa đủ.

2, Thứ hai, khi chúng ta tin, chúng ta phát triển đức tin ra cho bạn bè vì chúng ta sống là sống với người khác. Tại sao người nam và người nữ kết hôn? Không phải chỉ vì quan hệ ngoại hình đâu. Con người có các nhu cầu sâu xa hơn là nhu cầu về thể chất và đức tin chân thật đưa ta đến chỗ tin vào sự tốt lành và đáng tin cậy của người khác, và biết rằng tình bạn tạo nên sức mạnh. Nhưng nên nhớ rằng chúng ta có những nhu cầu mà các nguồn từ con người không thể cung ứng được.

 

3. Thứ ba, đức tin chân thật không những đưa ta đến chỗ tự tin và tin cậy nơi người khác, nhưng còn dẫn chúng ta đến chỗ tin cậy nơi Chúa. Kinh Thánh dạy: “Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng có Đức Chúa Trời, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài”. Hê-bơ-rơ 11:6

 

Tóm lại, khi một người có đức tin, thì triết lý sống của người ấy là: “Thử cầu xin Chúa.”, và việc cầu xin có ý nghĩa thật.

 

Định nghĩa về cầu nguyện hay nhất được ghi trong Tín Lý Vấn đáp Westminster Ngắn như sau:

“Cầu nguyện là việc dâng hiến các ước muốn của ta lên cho Chúa để nhận những điều phù hợp với ý chỉ của Chúa.”

 

Định nghĩa này cho thấy rằng ta phải đặt trọng tâm của việc cầu nguyện vào đúng chỗ – đó là không vào những điều chúng ta cầu xin, nhưng tập trung vào Chúa và ý chỉ của Ngài. Nhưng cũng có chỗ cho phía con người cầu xin nữa, đó là trình bày các ước muốn của mình. Nghĩa là, chúng ta đến chỗ tin cậy vào khả năng thực hiện, các mục đích của Chúa và những gì Chúa áp ứng cho lời cầu xin chính là đáp ứng cho điều chúng ta muốn.

 

Như thế người tin Chúa không những cầu xin Chúa, nhưng sau khi cầu xin thêm rằng: Cầu xin trong danh Chúa Giê-xu. Cầu xin nhân danh hay trong danh Chúa Giê-xu là cầu xin trong thần linh của Chúa Cứu Thế. Nghĩa là cầu xin đúng như Chúa Cứu Thế cầu xin nếu Ngài ở địa vị chúng ta. Như thế là chúng ta muốn biết ý của Đức Chúa Trời và thần linh của Đức Chúa Trời như chính Chúa Cứu thế biết. Và cuộc đời của chúng ta được giao thác vào ý chỉ và các phương cách của Chúa, y như cuộc đời Chúa Cứu Thế đã được ký thác. Mục đích chân thực của việc cầu nguyện không phải là nhận điều gì từ nơi Chúa nhưng là giao thác chính mình vào tay Chúa.

Gương Hiếu Kính Của Chúa Giê-xu

Gương Hiếu Kính Của Chúa Giê-xu

 

Giăng 19:25-27
Trong mảng mầu u ám của sự thương khó Chúa Giê-xu, chúng ta vẫn tìm thấy một gam mầu tươi sáng của tấm gương hiếu kính đối với mẹ của Chúa Giê-xu. Thánh kinh chép:

 

“Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Giê-xu, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài và Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa. Đức Chúa Giê-xu thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói cùng mẹ rằng: Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi! Đoạn, Ngài lại phán cùng người môn đồ rằng: Đó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy giờ, môn đồ ấy rước người về nhà mình.” Phân đoạn Thánh kinh nầy cho thấy tấm gương hiếu kính của Chúa Giê-xu đối với bà Mari qua hai hành động:

 

1. Nhớ đến mẹ.

 

“Tại một bên thập tự giá của Đức Chúa Giê-xu, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài và Ma-ri vợ Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa. Đức Chúa Giê-xu thấy mẹ mình”. Thật là cảm động biết bao đang khi Chúa Giê-xu bị treo trên thập tự giá, trong giờ phút đau đớn tột cùng, Ngài vẫn còn nhìn thấy mẹ mình và lo lắng cho mẹ. Thường trong những trường hợp như vậy, đa số tử tù hoặc là kêu gào chưởi rủa hoặc cắn răng chịu đựng nỗi đau và trông cho mau đến giờ trút hơi, nhưng Chúa thì ngược lại, Ngài rất tỉnh táo nói ra những lời lạ lùng và lời Ngài nói đã trở thành chân lý lưu truyền qua mọi thời đại. Trong đó có lời Ngài nói với bà Mari là mẹ Ngài, thể hiện tấm lòng tưởng nhớ lo lắng cho mẹ.

 

Đây là mẫu mực mà con cái Chúa phải noi theo để đối xử với người sinh thành dưỡng dục mình. Trong cuộc sống chúng ta gặp một vài người đáng nhớ, nhưng người mà chúng ta đáng nhớ nhất đó chính là người sinh thành ra mình. Như người đời nói: Mỗi người chỉ có một cha ruột và một mẹ ruột mà thôi. Thậm chí có người còn nói: Chúng ta có thể có chồng khác, vợ khác.. nhưng chỉ có một cha ruột và mẹ ruột. Vì vậy, những người làm con phải luôn nhớ đến cha mẹ. Bất cứ trong hoàn cảnh nào con cái cũng không quên lo lắng cho cha mẹ. Đó là mẫu mực mà Chúa Giêxu đã để lại cho chúng ta. Xin quý con cái Chúa hãy học theo gương mẫu nầy.

 

2. Gởi gắm mẹ cho sứ đồ Ngài yêu.

 

“Đức Chúa Giê-xu thấy mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần ngườithì nói cùng mẹ rằng: Hỡi đàn bà kia, đó là con của ngươi! Đoạn, Ngài lại phán cùng người môn đồ rằng: Đó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy giờ, môn đồ ấy rước người về nhà mình” (câu 26b, 27)

 

Tại sao Chúa Giê-xu gởi gắm bà Mari cho sứ đồ Giăng? Các sách Phúc Âm cho biết Chúa Giê-xu có 4 em trai là “Gia-cơ, Giô-sê, Giu-đe, Si-môn” và ít nhất là một em gái, như Thánh Kinh chép: “Chị em người há chẳng ở giữa chúng ta đây ư?” (Mác 6:3). Sở dĩ Chúa Giê-xu gởi gắm mẹ mình cho sứ đồ Giăng là vì cho đến lúc Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá; các em Chúa vẫn chưa tin Ngài là Chúa Cứu Thế (Mết-si-a). Đáng buồn hơn là họ tin vào lời đồn đại của người Pha-ri-si mà cho rằng Chúa Giê-xu bị mất trí và có lần họ kéo bà Ma-ri đi tìm Chúa để áp tải Ngài về nhà! (Giăng 10:20). Trong khi đó mẹ Chúa biết rất rõ Chúa Giê-xu là Đấng Mết-si-a. Do đó, Chúa Giê-xu không an tâm khi để mẹ Ngài ở với những người em chối bỏ Chúa, họ sẽ làm rối trí bà Mari trong thời gian Chúa chết và chôn trong phần mộ. Đáng mừng là sau khi chứng kiến Chúa phục sinh, các em Chúa đều đã tin Chúa và trở thành người hầu việc Chúa, như Gia-cơ, quản nhiệm Hội Thánh Giê-ru-sa-lem hay Giu-đe viết thư Giu-đe v.v..  chúng ta tin chắc rằng sau khi tin Chúa Giê-xu, họ đã săn sóc bà Ma-ri chứ không giao bà cho sứ đồ Giăng luôn đâu.

 

Tùy theo văn hóa của từng dân tộc mà người ta bày tỏ lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Người Việt Nam rất trọng chữ hiếu nên luôn luôn săn sóc cha mẹ chu đáo và làm điều tốt nhất cho cha mẹ. Phao-lô nhắc nhở con cái Chúa: “Ví bằng có ai không săn sóc đến bà con mình, nhứt là không săn sóc đến người nhà mình, ấy là người chối bỏ đức tin, lại xấu hơn người không tin nữa” (ITim 5:8). Ông còn khuyên cả hai:“Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm. Hãy tôn kính cha mẹ ngươi (ấy là điều răn thứ nhứt, có một lời hứa nối theo), hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất.

Hỡi các người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó”

(Êph 6:1-3)

 

Chúc cho tất cả những người con trong gia đình Cơ Đốc đều nhận được phước hạnh của sự hiếu kính cha mẹ. Amen!

Cơ Đốc Nhân Với Trách Nhiệm Xã Hội

Cơ Đốc Nhân Với Trách Nhiệm Xã Hội

 

 

 

 

Dân số Việt Nam hiện nay có gần 90 triệu người, phần đông dân chúng phải đối diện với nhiều vấn đề xã hội bức thiết trong cuộc sống. Từ các vấn đề an sinh xã hội như tình trạng nghèo đói (theo chuẩn nghèo của Chính phủ, 14,2% dân số Việt Nam đang sống trong tình trạng nghèo đói,[1] nếu tính theo chuẩn của Liên Hiệp quốc, con số đó khoảng 30%),[2] môi trường sống bị hủy hoại, chất lượng cuộc sống còn đứng ở vị trí thấp (chỉ số HDI của Việt Nam năm 2010 được xếp hạng 113/169 quốc gia),[3] chất lượng giáo dục và y tế chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, cho đến những vấn đề mang tính đạo đức xã hội như nạo phá thai, buôn bán người, tình trạng mại dâm, hôn nhân đồng giới, sự bất công trong xã hội và pháp luật, v.v… Những nan đề xã hội đó có thể bắt gặp ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ trong mọi giai đoạn lịch sử thế giới, chứ không phải của riêng một quốc gia nào hay trong một thời điểm cụ thể nào. Việt Nam chỉ là một nơi cụ thể và gần gũi để chúng ta có thể cùng nhau nhìn thấy thực trạng xã hội của thế giới hiện nay.

 

Mặc dù Cơ Đốc nhân được vinh dự là công dân của thiên quốc, nhưng xét về phương diện xã hội, Cơ Đốc nhân cũng vẫn là công dân của một quốc gia, là thành viên của một xã hội nào đó. Một khi đã là một nhân tố trong xã hội, là công dân của một quốc gia, công dân đó phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội – nghĩa là ít nữa, Cơ Đốc nhân phải nhận lấy những trách nhiệm xã hội như bất kỳ một công dân nào khác trong xã hội. Hơn nữa Cơ Đốc nhân còn được kêu gọi để làm ánh sáng cho thế gian, và “sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, là: thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ, và giữ lấy mình cho khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia-cơ 1:27). Cho nên tinh thần trách nhiệm của Cơ Đốc nhân đối với xã hội mình đang sinh sống càng phải được đề cao và chủ động thực thi.

 

Khi nói đến trách nhiệm cá nhân của mỗi Cơ Đốc nhân, chúng ta không thể bỏ qua vai trò và vị trí của Hội Thánh trong việc hình thành nên quan điểm của cá nhân những tín hữu đối với trách nhiệm xã hội cũng như những vấn đề khác liên quan đến niềm tin và việc thực hành niềm tin. Vì vậy, khi nói đến trách nhiệm xã hội của Cơ Đốc nhân cũng hàm ý nói đến trách nhiệm xã hội của Hội Thánh, và ngược lại vì có sự quy chiếu hai chiều.

 

Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã xác định đường hướng hoạt động của mình trong Hiến chương, ấy là: “sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ tổ quốc và dân tộc.”[4] Điều đó cho thấy, bên cạnh trách nhiệm thiêng liêng đối với Đức Chúa Trời và Hội Thánh Ngài, trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm xã hội cũng là một phần trong quan điểm sống đạo của tín hữu Tin Lành.

 

Tuy nhiên vai trò của Cơ Đốc nhân Việt Nam đối với các vấn đề xã hội nói chung còn rất lợt lạt, hầu như chưa tạo được dấu ấn hay tiếng nói khả dĩ nào đối với các vấn đề xã hội đang được quan tâm và cần phải giải quyết. Có thể nhận thấy, tình trạng đó xãy ra bởi sự hình thành quan điểm về trách nhiệm xã hội của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam dựa trên những yếu tố sau:

 

 

1. Yếu tố thần học.

 

Thần học của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc thần học của Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp. Hội Truyền giáo chủ trương chính sách “tự lập” cách nhất quán, theo đó, những trường học, bệnh viện, phòng khám hay những công tác xã hội nói chung… không phải là vấn đề chính cần phải quan tâm.[5] Vì mục tiêu chính yếu của Hội truyền giáo Phước âm Liên hiệp là rao giảng Tin Lành và thiết lập Hội Thánh bản xứ trên căn bản tự lập, tự trị, và tự truyền bá.[6] Hội Truyền giáo đã theo đuổi chính sách nhất quán nầy từ khi được hình thành vào năm 1883 khi chủ trương không thiết lập một hệ phái. Mãi cho đến năm 1974, Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp mới tuyên bố chính thức trở thành một hệ phái,[7] đồng thời liên kết với tổ chức CAMA Services (Compassion and Mercy Associates) để hoạt động trong cách lãnh vực xã hội như cứu trợ và phát triển cộng đồng.[8]

 

Cũng giống như tinh thần truyền giáo của các môn đồ trong Hội Thánh đầu tiên, các giáo sĩ Hội Truyền giáo Phước âm Liên hiệp được thúc đẩy để rao giảng Tin Lành với tinh thần Chúa sẽ trở lại trong nay mai, và sứ điệp Tin Lành của họ cũng giống như một phần sứ điệp Tin Lành của Phi-e-rơ “ta chẳng có vàng bạc chi hết” (Công vụ các sứ đồ 3:6). Vì vậy, Hội Thánh cùng với các Mục sư, Truyền đạo, và tín hữu đều được kêu gọi và thúc đẩy để hoàn toàn chú tâm vào việc nhanh chóng hoàn tất sứ mạng môn đồ hóa muôn dân.

 

Sách công vụ các sứ đồ cho chúng ta thấy thái độ sống và tinh thần rao giảng Tin Lành của Hội Thánh đầu tiên rất cấp bách. Các sứ đồ và môn đồ ra đi rao giảng Tin Lành ở khắp mọi nơi, từ châu Á, châu Phi, đến châu Âu, các tín hữu bán hết gia sản mình để dâng hiến cho công việc Chúa và hiệp nhau mỗi ngày để thờ phượng Chúa… Có lẽ phần đông trong số họ tin rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại ngay trong thời của họ, trước khi Giăng có thể qua đời (Giăng 21:20-23).

 

Sự nhấn mạnh về việc Chúa Giê-xu mau chóng trở lại để tiếp rước Cơ Đốc nhân bước vào một thời đại thiên hy niên phước hạnh cũng là một yếu tố liên hệ đến thái độ của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh trước những trách nhiệm xã hội. Cơ Đốc nhân thường được dạy rằng, chúng ta kiên nhẫn và nhịn nhục chịu khổ, vì không lâu nữa sẽ được Chúa tiếp rước cùng với những phần thưởng xứng đáng cho những người trung thành (2 Cô-rinh-tô 4:17-18; Gia-cơ 1:12; Khải huyền 2:10b; 22:12). Yanina Talmon, giáo sư Đại học Jerusalem đã ví von về niềm tin của một số phong trào cấp tiến về thiên hy niên, như là điều không bao lâu nữa sẽ xảy ra, và họ “sống trong sự chờ đợi căng thẳng và chuẩn bị cho điều đó,” trong khi các Cơ Đốc nhân đang mong đợi sẽ nhanh chóng bước vào một thế giới “được thay đổi một cách tuyệt đối, hoàn toàn và dứt khoát.”[9]

 

Những năm trước 1975, trong bối cảnh đất nước bị tang thương bởi chiến tranh và đói nghèo, các phước lành trong Ma-thi-ơ chương 5 được giải thích theo nghĩa đen đã trở nên nguồn động lực cho các Cơ Đốc nhân, họ xem sự hoạn nạn, bắt bớ, đau đớn, nghèo khó là phước hạnh và sẵn sàng chấp nhận nó. Vậy thì cũng chẳng có lý do gì để tìm cách thay đổi tình trạng xã hội đang tồn tại, trong khi tình trạng đó sẽ được thay đổi trong nay mai khi Chúa trở lại và Cơ Đốc nhân được bước vào thời kỳ thiên hy niên.

 

Ngoài ra, sự giảng dạy Kinh Thánh một cách không cân đối khi nhấn mạnh giáo lý “được cứu bởi đức tin” (Rô-ma 1:17), trong cái nhìn tương phản với các tôn giáo khác chủ trương làm việc công đức để được cứu, đã làm cho Cơ Đốc nhân không nhận thấy trách nhiệm của mình trước các nan đề xã hội. Trong khi đó, sứ điệp của Gia-cơ: “đức tin không sanh ra việc làm thì tự mình nó chết” (Gia-cơ 2:17) ít được nhấn mạnh, vì e ngại Cơ Đốc nhân – nhất là những tân tín hữu sẽ hiểu sai vấn đề, cố gắng làm việc lành để được cứu rỗi giống như chủ trương của các tôn giáo khác. Lần hồi, Cơ Đốc nhân xem đó là trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức hay đoàn thể khác. Hội Thánh và cá nhân tín hữu không nên quan tâm đến những vấn đề thế tục, mà chỉ nên chú tâm vào các vấn đề đức tin và thiêng liêng mà thôi.

 

Một sự kiện diễn ra vào năm 1957 tại Sài Gòn, một giáo sĩ đã công khai bày tỏ quan điểm của mình rằng: Chúa Giê-xu không hề mở trường học, bệnh viện hay cô nhi viện, Ngài chỉ lo giảng Tin Lành mà thôi, để phản biện chủ trương Hội Thánh nên dự phần để thực thi những trách nhiệm xã hội.[10] Nhưng trên thực tế, Chúa Giê-xu không “chỉ giảng Tin Lành mà thôi,” nhưng Ngài còn phản ứng thích hợp với các vấn đề xã hội: chữa lành những người bệnh, bênh vực những người bị ruồng bỏ, dạy dỗ mọi người biết yêu thương và bày tỏ tình thương đối với người khác v.v… (Ma-thi-ơ 22:39; 7:12 Giăng 13:35). Giống như điều Gia-cơ đã dạy rằng, đức tin của Cơ Đốc nhân phải được minh chứng bởi những hành động yêu thương cụ thể:

 

“Hỡi anh em, nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì ích chi chăng? Đức tin đó cứu người ấy được chăng? Ví thử có anh em hoặc chị em nào không quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, mà một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi cho bình an, hãy sưởi cho ấm và ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác, thì có ích gì chăng? Về đức tin, cũng một lẽ ấy; nếu đức tin không sanh ra việc làm, thì tự mình nó chết. Hoặc có kẻ nói: Ngươi có đức tin, còn ta có việc làm. Hãy chỉ cho ta đức tin của ngươi không có việc làm, rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức tin bởi việc làm của ta.” (Gia-cơ 2:14-18)

 

Mục sư Lê Văn Thái thuật lại những nỗ lực của ông cùng các cộng sự trong việc thành lập Cô nhi viện, một trong những cơ quan xã hội đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam như sau: “chúng tôi cố gắng bằng mọi cách nhằm gây một ý thức mới trong vòng tín hữu – vì như trên đã nói – phần đông tín đồ lúc bấy giờ có những quan điểm rất thiển cận nếu không bảo là sai lầm, luôn luôn khước từ hoặc chống trả những đề nghị hợp lý, thực tiễn – chỉ chăm tìm và thực hiện những sinh hoạt tâm linh có tính cách thiêng liêng.”[11] Thực ra, thái độ đó vẫn tiếp tục bám chặt vào trong tư tưởng của nhiều Cơ Đốc nhân Việt Nam cho đến ngày nay.

 

 

2. Yếu tố lịch sử.

 

Bên cạnh sự ảnh hưởng của tư tưởng thần học, yếu tố lịch sử cũng góp phần tạo nên quan điểm của Cơ Đốc nhân và Hội Thánh trước trách nhiệm xã hội của mình. Phần lớn thời gian hiện hữu của Hội Thánh Tin Lành trên mảnh đất Việt Nam là những năm tháng chiến tranh (1911-1975), cùng với đó là những vấn đề xã hội gai góc: tệ nạn xã hội, tội phạm, nghèo đói, mồ côi, bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, chính trị, mâu thuẫn giai cấp, v.v… cho nên có thể nhìn thấy trách nhiệm xã hội của mỗi Cơ Đốc nhân và Hội Thánh là rất lớn.

 

Giai đoạn trước 1954, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vẫn chỉ là một đoàn thể tôn giáo nhỏ bé trong xã hội Việt Nam, mà học giả Đào Duy Anh đã bình luận là “đơn bạc lắm,” với khoảng 10.000 tín hữu ở cả ba miền [vào năm 1938].[12] Do đó vai trò của Hội Thánh đối với trách nhiệm xã hội hoàn toàn không có.

 

Khi nạn đói Ất Dậu xảy ra tại miền Bắc Việt Nam khiến 2 triệu người chết trong vòng 7 tháng (từ tháng 10/1944 đến tháng 5/1945), Hội Thánh Tin Lành Việt Nam khi đó vẫn còn non trẻ, không đủ khả năng để đóng một vai trò nào trong cuộc khủng hoảng của đất nước. Địa hạt miền Trung và miền Nam chỉ có thể giúp đỡ phần nào cho ngân sách của địa hạt miền Bắc duy trì sự hoạt động,[13] cũng như lạc quyên giúp đỡ những nhu yếu phẩm cho tín hữu miền Bắc thông qua chuyến đi của Mục sư Lê Văn Thái trong thời điểm đó.[14]

 

Từ năm 1955, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam với khoảng 14.000 tín đồ trong 157 Hội Thánh ở miền Nam,[15] đã bắt đầu có những “tiếng nói” để thực hiện trách nhiệm xã hội của mình. Với việc mở ra các cô nhi viện, phòng khám bệnh, bệnh viện phung, trường học, trường dạy nghề, các nhóm công tác xã hội, các ủy ban… được điều hành và phục vụ bởi những Cơ Đốc nhân, Hội Thánh đã góp phần trong việc giải quyết những vấn đề xã hội của đất nước.[16]

 

Công tác nầy trở nên nổi bật hơn tại khu vực các dân tộc thiểu số sinh sống, nhất là các chương trình đặt chữ và dạy chữ cho các dân tộc bán khai và sơ khai – di sản ấy vẫn còn giá trị đến ngày nay và đang được tiếp tục phát triển cho hoàn thiện hơn. Ngoài ra, những thay đổi về cơ cấu xã hội, vệ sinh môi trường, việc loại bỏ những hủ tục và những hành động man rợ cũng là kết quả từ đức tin Cơ Đốc.[17]

 

Sau năm 1975, vì hoàn cảnh lịch sử, mọi hoạt động của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam bị gián đoạn và co cụm, các ủy ban trong đó có Ủy ban Cứu tế xã hội cùng với những cơ sở y tế xã hội và trường học của Hội Thánh hoặc bị đóng cửa, hoặc bị trưng dụng. Hội Thánh hầu như không còn có thể làm gì để thực thi trách nhiệm xã hội của mình trong hoàn cảnh đó, có chăng chỉ là sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau giữa vòng các tín hữu và các Hội Thánh.

 

Từ năm 2001 đến nay, sau khi được công nhận tư cách pháp nhân, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) đã bắt đầu khởi động lại các hoạt động xã hội với nhiều dự án khác nhau bởi nội lực của Hội Thánh cũng như sự hợp tác của các tổ chức phi chính phủ ở trong và ngoài nước. Điều đáng mừng đó là việc thực thi trách nhiệm xã hội có sự chuyển mình rõ rệt theo thời gian, ban đầu chỉ dựa vào Ủy ban Y tế xã hội Tổng liên hội, nhưng lần hồi các Ban Đại diện tỉnh/thành và các chi hội địa phương, thậm chí các điểm nhóm cũng bắt đầu dự phần vào trong việc thực thi trách nhiệm xã hội của mình,[18] không chỉ giới hạn tại địa phương, vùng miền, hay quốc nội mà còn vươn ra hải ngoại.[19]

 

Từ năm 2005 trở đi, sự nhìn nhận và việc thực thi trách nhiệm xã hội của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (miền Nam) có sự tiến bộ rõ rệt, với nhiều dự án khác nhau cho nhiều đối tượng và thành phần khác nhau trong xã hội, đặc biệt chương trình phát triển cộng đồng có ý nghĩa rất thiết thực và có giá trị lâu dài trong nỗ lực biến đổi và chinh phục cộng đồng cho Chúa Giê-xu.[20]

 

Có thể nhận thấy, tiếng nói của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đối với những vấn đề xã hội trong từng giai đoạn lịch sử có sự khác nhau bởi các yếu tố khác nhau (như năng lực, bối cảnh chính trị, v.v…) mà chúng ta sẽ bàn luận trong những phần sau.

 

 

3. Yếu tố năng lực.

 

Phải nhìn nhận rằng, phần đông Cơ Đốc nhân Việt Nam vẫn là những người có mức thu nhập thấp (hay không muốn nói là người nghèo) so với mức sống trung bình của người dân Việt Nam. Thành phần giàu có trong Hội Thánh không nhiều, nếu có thì mức độ dâng hiến hỗ trợ cho những nỗ lực thực thi trách nhiệm xã hội cũng rất ít ỏi. Phần nhiều các Hội Thánh tại các tỉnh miền Trung và Tây nguyên vẫn còn ở trong tình trạng chưa tự lập về tài chánh, trong khi các Hội Thánh ở vùng đồng bằng sông Cửu Long dầu được xem là tự lập, nhưng sự tự lập đó vẫn còn rất bấp bênh, cuối cùng thì tài lực của Hội Thánh tập trung vào một số Hội Thánh ở các đô thị lớn. Điều đó cũng cho thấy một khiếm khuyết trong chính sách tự lập của Hội Thánh là tính cục bộ cao, làm cho sự phát triển của các Hội Thánh địa phương không được đồng đều (nơi dư, nơi thiếu, và những chỗ có dư cũng không muốn chia sẻ, hoặc chia sẻ rất ít cho những chỗ khác, vì mọi người đều muốn tập trung lo cho Hội Thánh địa phương của mình), đồng thời nguồn lực của giáo hội không được tập trung, dẫn đến việc Hội Thánh không đủ năng lực để đảm đương những trách nhiệm xã hội.

 

“Tâm lý nghèo thiếu” gắn chặt vào triết lý sống của mỗi Cơ Đốc nhân và Hội Thánh,[21] người ta muốn được nhận, được hỗ trợ, được giúp đỡ, được cho không hơn là phải tự dâng hiến và đóng góp để thực hiện một mục vụ nào đó trong Hội Thánh, huống chi là những công tác hướng ngoại để thực thi trách nhiệm xã hội của cá nhân mỗi Cơ Đốc nhân cũng như Hội Thánh.

 

Trước năm 1975, nguồn lực cung ứng cho những cơ sở y tế, giáo dục cũng như các dự án xã hội hoạt động, phần lớn dựa vào những nguồn trợ giúp từ các tổ chức, các giáo phái và các nhóm Hội Thánh khác như World Vision, Mennonite Central Committee, World Council of Churches, Church World Service, Lutheran World Federation, East Asian Council of Churches, World Relief Commisson, v.v…[22] Ngoại trừ một vài nỗ lực của một số Cơ Đốc nhân để thành lập tổ chức Thanh niên Cơ Đốc xã hội, hoạt động trong các lãnh vực an sinh xã hội, cải thiện môi trường sống, tổ chức dạy nghề, lập các trường học và nhà giữ trẻ, cũng như các cơ sở y tế… với nguồn lực có được từ sự đóng góp của các thành viên và tổ chức các cơ sở kinh doanh và dịch vụ. Phong trào nầy phát triển và hoạt động kết quả tại các đô thị lớn như Đà Nẵng, Quảng Nam, Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn, Cần Thơ.[23]

 

Mặc dầu Hội Thánh Tin Lành Việt Nam luôn tự hào về sự tự trị, tự lập của mình, nhất là sau năm 1975 khi Hội Thánh không còn bất kỳ nguồn trợ cấp nào từ hải ngoại, nhưng sự tự lập đó chỉ mới ở một mức độ đủ cung ứng cho sự tự trị và tự truyền bá của Hội Thánh, chứ chưa đủ sức để cung ứng nguồn lực cho Hội Thánh tự thực thi những trách nhiệm xã hội của mình. Phần lớn ngân quỹ trong Hội Thánh được phân bổ cho việc điều hành, cung lương, xây dựng, kế đến là truyền giáo và Cơ Đốc giáo dục, hỗ trợ các ban ngành, v.v… Công tác xã hội được xem là ưu tiên cuối cùng mà Hội Thánh sẽ thực hiện nếu như ngân quỹ dư thừa, hoặc có nguồn hỗ trợ đặc biệt nào đó từ các cá nhân hay tổ chức khác, và thường chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong ngân sách của Hội Thánh.[24]

 

4. Yếu tố chính trị.

 

Nói đến Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, là phải nói đến chủ trương “không xen vào chính trị” đã được xác quyết từ khi Hội Thánh được hình thành đến nay. Trong luận án tiến sĩ của Mục sư Lê Hoàng Phu, ông đã có những giải luận xác đáng với những ví dụ chứng minh cách cụ thể về quan điểm nầy của Hội Thánh.[25] Tuy nhiên trong một giai đoạn lịch sử, Hội Thánh đã định nghĩa hoặc hiểu không chính xác về chủ trương ấy, khi xem việc “không xen vào chính trị” đồng nghĩa với việc không tham gia vào bất kỳ hoạt động nào của chính quyền và xã hội với tư cách công dân và với tư cách một tổ chức xã hội.

 

Bên cạnh đó, môi trường chính trị tại Việt Nam sau năm 1975 khá “nhạy cảm” khi chính quyền Việt Nam thống nhất đã chủ trương đi theo con đường chủ nghĩa xã hội. Một trong những trích dẫn thường xuyên được “phổ cập” cho dân chúng được trích trong tiểu luận của Karl Marx: “Ảo tưởng tôn giáo và nhiệm vụ của lịch sử,” đó là:

 

“Tôn giáo là tính hiện thực ảo tưởng của bản chất con người, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu tranh chống một thế giới mà lạc thú tinh thần của nó là tôn giáo.

 

Sự khổ đau mang tính tôn giáo đồng thời vừa là biểu hiện của khổ đau trong hiện thực, vừa là sự chống đối lại khổ đau ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những tình cảnh không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.”[26]

 

Tinh thần đó cùng với các chính sách cải cách có liên quan đến các vấn đề tôn giáo đã gieo rắc mối nghi ngờ cho dân chúng về tôn giáo nói chung và Tin Lành nói riêng, cũng như tạo ra sự đề kháng và e dè từ phía các Cơ Đốc nhân và Hội Thánh. Bởi lẽ các Cơ Đốc nhân và Hội Thánh đã phải trải qua những kinh nghiệm đau thương, mất mát khi nhìn thấy những công tác xã hội của mình đang thực hiện bị đình chỉ, những cơ sở đang hoạt động bị đóng cửa hay tịch thu… do đó, tâm lý e dè và lo sợ “vết thương cũ tái phát” luôn hiện hữu. Bên cạnh đó, sự nghi kỵ về việc lợi dụng tôn giáo để làm chính trị, cũng như đánh đồng tôn giáo với chính trị vẫn còn tồn tại trong ý niệm và tâm thức của nhiều người.[27]

 

Vì vậy, một khi Cơ Đốc nhân hay Hội Thánh muốn thực thi trách nhiệm xã hội của mình cách công khai, trong một số trường hợp sẽ bị ngăn trở, trong trường hợp khác có thể sẽ gặp không ít trở ngại, hoặc thuận lợi hơn thì phải chịu sự giám sát rất chặt chẽ, dưới nhãn quan “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” – vốn được hiểu một cách chính thống theo hướng tiêu cực,[28] và Tin Lành là “do Mỹ dựng lên” để làm bình phong cho các nhóm phản kháng đòi dân chủ và tự trị.[29]

 

Tuy nhiên, trong những năm gần đây tình trạng nghi kỵ đã lần hồi có những chuyển biến tích cực, với thái độ tiếp cận có phần cởi mở và hợp tác hơn cả về phía Hội Thánh, người dân cũng như chính quyền trong việc cùng nhau thực thi trách nhiệm xã hội. Vai trò của Hội Thánh và các tín hữu Tin Lành trong những hoạt đồng từ thiện nhân đạo cũng được nhìn nhận và tạo điều kiện hoạt động thuận lợi hơn.[30]

 

5. Yếu tố văn hóa – xã hội.

 

Yếu tố cuối cùng mà người viết muốn đề cập đến đó là yếu tố văn hóa – xã hội. Xã hội Việt Nam với nền văn hóa mang đậm bản sắc của các tôn giáo và truyền thống Á Đông, nên sự xung đột giữa văn hóa Tin Lành và văn hóa dân gian là điều không thể tránh khỏi.[31] Những tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, cùng với các tôn giáo bản địa như Cao Đài giáo, Phật giáo Hòa hảo, cũng như vô số những hình thức tín ngưỡng dân gian như thờ thành hoàng, thánh mẫu, các anh hùng dân tộc, và các hình thức tín ngưỡng đa thần, phiếm thần của các dân tộc thiểu số ở vùng cao, v.v… đều trái ngược với niềm tin vào Đức Chúa Trời chân thần duy nhất của Cơ Đốc giáo.[32]

 

Trong những năm gần đây, với sự phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, người ta cũng thường nhắc đến khái niệm “không đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc.”[33] Cùng với sự đề cao các yếu tố văn hóa và văn minh cổ xưa của nhân loại, các cơ quan nghiên cứu và quản lý văn hóa Việt Nam đang chủ trương việc phục dựng các lễ hội truyền thống, phát huy những di sản văn hóa (bao gồm những di sản vật thể và phi vật thể trong đó có những hủ tục của một số dân tộc và địa phương), tôn vinh những giá trị văn hóa gắn liền với tín ngưỡng dân gian…[34]

 

Một số bài viết nghiên cứu về Tin Lành tại Việt Nam đã phản ánh rõ quan điểm và sự nhìn nhận của xã hội, của những nhà làm công tác quản lý và nghiên cứu tôn giáo, cũng như của những người phi Cơ Đốc về đạo Tin Lành. Theo đó, cách sống đạo của Cơ Đốc nhân sẽ tạo ra những xung đột trong cộng đồng, và Tin Lành được xem như là một hiện tượng tôn giáo cần phải hạn chế phát triển, đồng thời cũng là nguồn gốc cho những xung đột văn hóa, xã hội, và chính trị sẽ xảy ra.[35] Những mâu thuẫn có thể phát sinh ở mức độ hẹp ngay trong gia đình giữa những Cơ Đốc nhân và những thành viên khác, cho đến mức độ rộng hơn ở từng thôn, xóm, bản, làng và thậm chí là tỉnh/thành hay khu vực như đã từng xảy ra.

 

Bên cạnh đó, nhiều Cơ Đốc nhân luôn mang cái nhìn chủ quan “chỉ có mình là chân lý” khi tiếp xúc với những người theo các tôn giáo khác, dẫn đến sự nghi kỵ, kỳ thị và xa lánh trong mối liên hệ cá nhân cũng như xã hội.[36] Đồng thời với sự đóng khung của Hội Thánh trong các mục vụ chỉ giới hạn trong Hội Thánh hoặc nhiều lắm là liên Hội Thánh, chứ chưa tạo được sự tương tác với cộng đồng, ngay cả trong công tác cứu trợ – Hội Thánh vẫn chỉ tập trung vào những thuộc viên của mình chứ chưa có sự quan tâm thỏa đáng cho những người khác, nếu có thì cũng rất hạn chế. Điều đó dẫn đến tình trạng khép kín trong mối liên hệ cá nhân giữa Cơ Đốc nhân với những người không cùng niềm tin với mình, cũng như giữa Hội Thánh với cộng đồng chung quanh. Và càng ngày, sự ngăn cách đó càng bị khoét sâu thêm thay vì phải lấp đầy nhanh chóng.

 

Trong hai nhiệm kỳ vừa qua (2005-2013), Ban Trị sự Tổng liên hội đã thành lập Ủy ban Văn hóa giáo dục để nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến lĩnh vực văn hóa – xã hội để tìm một hướng đi, hay xa hơn là một chính sách cho sự phát triển của Hội Thánh, cũng như cùng với Ủy ban Y tế – Xã hội thực thi những trách nhiệm xã hội khả dĩ. Nhưng có thể nói, vì văn hóa – xã hội là một vấn đề rất rộng lớn với nhiều quan điểm khác nhau và không ít những tranh cãi, cho nên đến nay những cố gắng đó vẫn chưa đạt được những kết quả như mong đợi.

 

Thay lời kết.

 

Người viết bài nầy cho rằng, mỗi cá nhân tín hữu cũng như Hội Thánh là một thực thể của xã hội, vì vậy trách nhiệm xã hội của Hội Thánh hay mỗi Cơ Đốc nhân là trách nhiệm hiển nhiên, không thể bàn cãi – vì đó trước hết là trách nhiệm của một thành viên đang sống trong một xã hội hay một quốc gia, hoặc trong phạm vi nhỏ hẹp hơn là một thành viên đang sống trong gia đình. Vấn đề là, Hội Thánh và mỗi Cơ Đốc nhân sẽ làm những gì và làm như thế nào để thể hiện trách nhiệm xã hội của mình, và đồng thời không mâu thuẫn với niềm tin và chân lý Thánh Kinh.

 

Bàn về vai trò của phụ nữ Cơ Đốc trong Hội Thánh đầu tiên, cụ thể là những góa phụ trong Hội Thánh được sứ đồ Phao-lô đề cập đến trong I Ti-mô-thê 5:10, “phải là người được tiếng khen vì việc phước đức mình, như đã nuôi con cái, đãi đằng khách lạ, rửa chân thánh đồ, cứu giúp kẻ khốn nạn, và làm đủ các việc phước đức,” Alexander Faivre đã lưu ý rằng: “tất cả những công việc đó thực ra là bổn phận hằng ngày của bà với tư cách là một Cơ Đốc nhân bình thường.”[37]

 

Có thể kể ra những công tác khác nhau để Cơ Đốc nhân và Hội Thánh có thể làm để thực thi trách nhiệm xã hội của mình ở trần gian nầy. Tuy nhiên, ở mức độ tối thiểu, điều Cơ Đốc nhân Việt Nam có thể làm là gì?

 

Theo tiến sĩ Trương Văn Thiên Tư, “Trải qua bao thế hệ, người Việt truyền thống đã xây dựng cho mình một cách sống theo tình yêu và công lý của Trời, hay Đạo Trời, đó là chuẩn mực cho đức hạnh của họ. Niềm tin mạnh mẽ vào Trời giúp cho người Việt truyền thống sống công chính và nhân lành trong bất kỳ hoàn cảnh sống nào.”[38] Tuy nhiên, giá trị đạo đức và lối sống của xã hội Việt Nam ngày nay đang rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Các học giả, các nhà giáo dục nhìn nhận xã hội Việt Nam hiện nay như sau: “Đã đến lúc chúng ta phải rung chuông báo động về sự bất ổ trong gia đình, về tình trạng đạo đức xã hội, luân thường đạo lý đang bị vi phạm và xuống cấp nghiêm trọng.”[39] Tình trạng nạo phá thai tràn lan, nguy hiểm nhất là rơi vào giới trẻ bởi tình trạng quan hệ luyến ái trước hôn nhân; tình trạng quan hệ đồng tính luyến ái trở nên công khai và đang được kêu gọi để công nhận và bảo vệ; tình trạng mại dâm và buôn bán người tràn lan; tình trạng bất bình đẳng giới vẫn tiếp tục tồn tại dù xã hội đã có nhiều cải cách và có bước tiến dài trong nỗ lực xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng đó; sự xuống cấp của các giá trị đạo đức xã hội khiến cho tội lỗi gia tăng, v.v…

 

Vì vậy, sự đóng góp của Cơ Đốc nhân vào nền đạo đức xã hội trước sự suy thoái nghiêm trọng về các vấn đề đạo đức trong xã hội hiện nay là việc làm cần thiết. Vì suy cho cùng, mục tiêu cuối cùng của đạo đức là hạnh phúc, là sự tăng trưởng, sự phát triển toàn diện của tất cả mọi người và dẫn đến một xã hội tốt đẹp, mà đối với Cơ Đốc nhân thì khuôn mẫu đạo đức cho sự phát triển toàn diện chính là Chúa Giê-xu.[40] Và cho dù Hội Thánh không phải là một hội về đạo đức, nhưng “đạo đức là một phần trong giáo lý” của Hội Thánh,[41] cho nên Hội Thánh không thể bỏ qua vấn đề đạo đức, bởi cớ:

 

“Mọi Cơ Đốc nhân đều bị chất vấn gắt gao trước lý tưởng đạo đức: “các ngươi là muối của đất… là sự sáng của thế gian.” Vì vậy, đứng trước một xã hội đang suy thoái, Hội Thánh có một cái gì đó để sống, để nói lên, và trước hết hết có một mẫu gương để nêu ra. Là một thành trì được xây trên cao, và được Thánh Linh tình yêu soi chiếu, Hội Thánh có bổn phận đem lại ánh sáng cho trái đất nầy. Như thế, Hội Thánh có một nền đạo đức và có một thầy dạy đạo đức chứ không phải là một Hội Thánh lên giọng dạy đạo đức.”[42]

 

Kinh Thánh dạy Cơ Đốc nhân phải chu toàn các bổn phận ngay trong thế gian, tương ứng với chức phận trong cuộc sống dành cho mỗi người trong xã hội (I Cô-rinh-tô 7:17-24; Ê-phê-sô 6:1-9). Điều đó có nghĩa là nếu mỗi Cơ Đốc nhân có nghề nghiệp hoặc làm việc cách chính đáng trong đời thường đều có ý nghĩa và giá trị, đáng trân trọng.[43] Đó chính là hoạt động đạo đức cao nhất mà con người có thể đảm nhiệm ở đời nầy.[44]

 

Cuối cùng, ở một góc nhìn khác trong bối cảnh Việt Nam, sự đóng góp của Cơ Đốc nhân vào nền đạo đức xã hội dễ dàng được chấp nhận nhất. Cơ Đốc nhân được giáo huấn tuân giữ điều răn và những mạng lệnh của Chúa, sống theo cách của Chúa, mà Phao-lô khẳng định rằng, “yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ: không có luật pháp nào cấm các sự đó” (Ga-la-ti 5:23).