LỄ CÔNG BỐ CHI HỘI VÀ BỔ NHIỆM QUẢN NHIỆM HỘI THÁNH MENNONITE TRÀ BỒNG

LỄ CÔNG BỐ CHI HỘI VÀ BỔ NHIỆM QUẢN NHIỆM HỘI THÁNH MENNONITE TRÀ BỒNG

Ngày 07 tháng 02 năm 2023 là một ngày thật phước hạnh và đáng nhớ tại Hội Thánh MENNONITE TRÀ BỒNG, một Hội Thánh Miền Cao Tỉnh Quảng Nam.

LỄ CÔNG BỐ CHI HỘI VÀ BỔ NHIỆM QUẢN NHIỆM được diễn ra một cách trang trọng trong sự thờ phượng của toàn thể Hội Thánh và sự ban phước từ nơi Đức Chúa Trời.

MỤC SƯ HỒ HOÀNG CAO nhận quyết định từ Tổng Giáo Hội.

MỤC SƯ HỒ HOÀNG CAO NHẬN QUYẾT ĐỊNH TỪ TỔNG GIÁO HỘI.

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIẢNG – XUÂN YÊU THƯƠNG 2023

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIẢNG – XUÂN YÊU THƯƠNG 2023

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN GIẢNG XUÂN YÊU THƯƠNG VỚI MỤC SƯ TIẾN SĨ FRANKLIN GRAHAM

Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian” cách đây hơn hai ngàn năm để viếng thăm nhân loại giữa sự bất lực trong tội lỗi vì thế nên con người tìm kiếm Ngài. Vì con người không thể tìm và thấy được Ngài, nên Ngài đã trở thành người, sống giữa con người và chỉ có Đấng vô tội mới có chết thế tội cho con người.

Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn, 

đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy; …” (I Ti-mô-thê 1:15a)

Chúa đã đến trong thế gian để cứu vớt cuộc đời mỗi chúng ta… đây là lời chắc chắn. Thật đáng để mỗi chúng ta đón nhận với cả lòng tin trọn vẹn.

Chương trình XUÂN YÊU THƯƠNG sẽ đem đến cho chính bạn với Đấng ban cho bạn sự Bình An trọn vẹn, Sự YÊN ỦI vô bờ và sự PHƯỚC HẠNH đời đời.

BẠN CÓ THỂ ĐĂNG KÝ VỚI CHÚNG TÔI QUA THÔNG TIN SAU ĐỂ ĐƯỢC NHẬN VÉ MIÊN PHÍ ĐỂ THAM GIA CHƯƠNG TRINH NÀY:

SỐ ĐIỆN THOẠI /zalo: 07888.99.464 THẦY TÀI.

ĐỊA CHỈ NHẬN VÉ: 14K HOÀNG QUỐC VIỆT P. PHÚ MỸ QUẬN 7 (VĂN PHÒNG TỔNG HỘI HỘI THÁNH MENNONITE VIỆT NAM)

EMAIL: bamers.quytai@gmail.com

 

HỘI THÁNH MENNONITE VIỆT NAM CHÚC TẾT CÁC BAN NGÀNH – CƠ QUAN CHÍNH PHỦ

HỘI THÁNH MENNONITE VIỆT NAM CHÚC TẾT CÁC BAN NGÀNH – CƠ QUAN CHÍNH PHỦ

Hòa trong không khí đón một mùa Xuân mới 2023 phước hạnh và an lành trong Chúa, Giáo Hội Mennonite Việt Nam đã đến CHÚC TẾT các Ban Ngành- Cơ Quan – Văn Phòng Chính Phủ. 

Nhân dịp Xuân Quý Mão 2023, Mục sư Hội Trưởng Huỳnh Đình Nghĩa thay mặt đoàn và Hội thánh gửi lời chúc mừng năm mới an khang thịnh vượng và đạt được nhiều thành tựu tới toàn thể lãnh đạo, công chức và viên chức Ban Tôn giáo Chính phủ.

Ban Tôn Giáo Chính Phủ tại Buổi Tiếp Đoàn Mục Sư Mennonite

Với chủ trương, chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo hoạt động, ông mong muốn trong thời gian tới, Hội thánh Mennonite Việt Nam sẽ tiếp tục thúc đẩy tín hữu GIÁO HỘI hoạt động tôn giáo theo đúng Hiến chương của Hội thánh và pháp luật của Nhà nước, đồng hành cùng chính quyền địa phương trong các hoạt động y tế, từ thiện, góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Một số hình ảnh của các Ban Ngành và các tỉnh trong khắp cả nước:

Ban Tôn Giáo Chính Phủ TPHCM

UBND Q7 đến thăm chúc Tết VĂN PHÒNG TỔNG HỘI

Cơ Quan chính phủ Tp Hội An

Công An Tỉnh Quảng Nam

KHÓA HỌC ĐỜI SỐNG VÀ CHỨNG NHÂN – CHƯƠNG TRÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG THUỘC ĐOÀN TRUYỀN GIÁO MỤC SƯ FRANKLINDGRAHAM

KHÓA HỌC ĐỜI SỐNG VÀ CHỨNG NHÂN – CHƯƠNG TRÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG THUỘC ĐOÀN TRUYỀN GIÁO MỤC SƯ FRANKLINDGRAHAM

Kính chào Quý Mục sư,

Văn phòng Xuân Yêu Thương xin gửi đến Mục sư Thời Khóa Biểu của Khóa Học ĐỜI SỐNG CƠ ĐỐC & CHỨNG NHÂN sẽ được tổ chức từ ngày 24/10 đến 12/11/2022 tại các Hội Thánh trong khu vực TP.HCM.
Xin Mục sư vui lòng gửi Thời Khóa Biểu này cho các Hội Thánh trong cùng Giáo Hội để khích lệ các tín hữu tham gia Khóa học.

Đồng thời, Văn phòng cũng sẽ gửi các poster Thời Khóa Biểu (giống như hình trên ạ) để treo tại các Hội Thánh nhằm giúp các tín hữu dễ theo dõi và tham gia. Xin Mục sư cho Văn phòng biết số lượng poster cần dùng để chúng tôi gửi cho Mục sư ạ.

Xin cám ơn Mục sư!

#xuanyeuthuong #FranklinGraham #truyengiao #prayforVietnam

Khái quát về hệ phái Tin lành Mennonite trên thế giới và Việt Nam

Khái quát về hệ phái Tin lành Mennonite trên thế giới và Việt Nam

Khái quát về hệ phái Tin lành Mennonite

trên thế giới và Việt Nam

 

Hệ phái Tin lành Mennonite ra đời cùng với phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu vào thế kỷ XVI do ông Menno Simons, nguyên là một linh mục Công giáo khởi xướng. Nhóm tín đồ đầu tiên của Tin lành Mennonite được hình thành ở Zurich (Thuỵ Sĩ) vào năm 1525.
  1. Lịch sử ra đời và phát triển

Họ là những người bất đồng ý kiến với nhà cải cách nổi tiếng Ulbric Zwingli trong chủ trương liên kết giữa giáo hội với chính quyền thế tục. Họ cũng không chấp nhận lễ Báp tem cho trẻ nhỏ, nên được coi là tín đồ của giáo đoàn “Rửa tội lại” (Anabaptist). Những tín đồ ở Hội thánh do Menno Simons thành lập đã đặt cho nhóm cải cách của mình là Mennonite (men-nô-nai).

Thời kỳ đầu những người Mennonite – Rửa tội lại ở Thuỵ Sĩ bị bách hại gắt gao vì không liên kết với chính quyền, nên đã phải sang lánh nạn ở Anh, Đức, Hà Lan… Cuối cùng năm 1683 nhóm Mennonite – Rửa tội lại quyết định di dân sang Bắc Mỹ sống ở vùng Germantown gần Philadelphia. Ở vùng đất mới, giáo đoàn Mennonite thu hút được khá đông người tham gia. Cùng thời gian này, những người Mennonite ở Đức, Hà Lan… cũng sang sống ở các bang Pennsylvania, Ohio, Virginia, Illinois (Mỹ) và Canada.

Về giáo thuyết, phái tin lành Mennonite duy trì 18 tín điều đã ký ở Dordrecht (Hà Lan) vào năm 1632. Cụ thể là: tin Thiên Chúa là đấng tạo hoá; tin có sự sa ngã của loài người; tin sự cứu chuộc của Chúa Giêsu; tin có ngày phục sinh và phán xét cuối cùng; tin vâng theo luật pháp của Thiên Chúa trong Phúc âm; tin vào sự trở lại của Thiên Chúa để được cứu rỗi; tin phép Báp-tem như một lời làm chứng trước công chúng; tin lễ Tiệc thánh là bày tỏ sự hiệp nhất và thông công; tin việc rút phép thông công đối với kẻ cố ý phạm tội; tin có phần thưởng tương lai cho những người trung tín theo Thiên Chúa và những hình phạt cho kẻ ác…

Về tổ chức, các chức sắc của phái Mennonite bao gồm các giám mục (thường gọi là trưởng lão), các mục sư, truyền đạo. Mennonite chủ trương trao quyền tự trị cho các hội thánh cơ sở. Tuy nhiên, đối với những hội thánh mới thành lập chưa đủ sức quản trị thì được sự giúp đỡ của các địa hạt và hội thánh trung ương.

Cũng như nhiều hệ phái Tin lành khác, phái Tin lành Mennonite không tránh khỏi sự phân rẽ trong quá trình phát triển. Đến nay Mennonite chia thành 13 giáo hội độc lập. Xin nêu một số giáo hội chủ yếu như sau:

  1. Giáo hội Mennonite

Giáo hội Mennonite là tổ chức gốc của hệ phái Tin lành Mennonite và là giáo hội có số lượng tín đồ đông nhất, khoảng nửa triệu người và phạm vi hoạt động ở nhiều châu lục. Giáo thuyết của Giáo hội Mennonite dựa trên tuyên xưng 18 tín điều ký tại Dordrecht (Hà Lan) năm 1632. Trước tình trạng Mennonite phân rẽ tổ chức, vào các năm 1725, 1921, 1963, Giáo hội Mennonite đưa ra những tuyên bố quan trọng khẳng định “Tuyên xưng Dordrecht”.

Giáo hội Mennonite hiện đang triển khai thực hiện truyền giáo ở các vùng Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Âu, châu Phi, Giáo hội có ba trường cao đẳng, hai trường đại học về Kinh thánh (Mỹ và Ấn Độ), có nhiều trường trung học và tiểu học, có các bệnh viện, nhà ở cho người về hưu và dịch vụ phúc lợi cho trẻ em ở nhiều nước trên thế giới.

  1. Giáo hội Amish theo dòng tu cổ

Đây là tổ chức giáo hội của cộng đồng nguời Mennonite Amish nhập cư sang Mỹ vào khoảng thời gian đầu thế kỷ XVIII. Đặc điểm của giáo hội này là duy trì nghi thức thờ cúng, cách trang phục cổ và có tính biệt lập rất cao. Hiện nay ở Mỹ và Canada có 739 hội thánh cơ sở với khoảng trên 10 ngàn tín đồ các giáo hội theo dòng tu cổ.

  1. Giáo hội Anh em Hutterian

Nguồn gốc của Giáo hội Anh em Hutterian là một trong những nhóm tín đồ Mennonite đầu tiên ở châu Âu vào thế kỷ XVI và nó được mang tên người sáng lập – ông Jacob Hutter – một người Mỹ gốc Đức đi theo chủ trương rửa tội và duy trì chế độ tài sản chung. Khoảng cuối thế kỷ XIX, những tín đồ Hutterian là người Đức sang định cư ở Canada và Mỹ hình thành Giáo hội Anh em Hutterian ở vùng Bắc Mỹ.

Có lẽ với những đặc điểm riêng về sinh hoạt tôn giáo và hoạt động xã hội như những giáo hội Mennonite khác, Giáo hội Hutterian Anh em không mấy thành công trong việc truyền giáo mở rộng lực lượng, mặc dù họ rất nỗ lực và nhiệt tình.

  1. Hội nghị những người Mennonite Bảo thủ

Đây là một tổ chức Mennonite được tồn tại dưới hình thức hội nghị.  Năm 1910 là mốc đánh dấu việc thành lập tổ chức khi những người lãnh đạo Mennonite theo tư tưởng bảo thủ đến từ các vùng của Mỹ và Canada tổ chức hội nghị đầu tiên ở Michigan (Mỹ). Tuy nhiên mãi đến năm 1954 tên gọi chính thức như trên mới được thông qua.

Hiện nay tổ chức Hội nghị những người Mennonite Bảo thủ có khoảng trên 10 ngàn tín đồ ở các nước Mỹ, Canada, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ.

  1. Giáo hội Mennonite theo dòng tu cổ

Giáo hội Mennonite theo dòng tu cổ ra đời không phải vì sự bất đồng về giáo thuyết hay mâu thuẫn giữa những người lãnh đạo mà từ phản ứng của ông Jacob Wisler, một giám mục Mennonite ở Ấn Độ, chống lại việc sử dụng tiếng Anh trong hành lễ ở nhà thờ và giảng dạy ở các trường Chủ nhật.

Đặc điểm nổi bật của giáo hội này là không sử dụng tiếng Anh trong sinh hoạt tôn giáo và tham gia tích cực vào các công việc cứu trợ, đặc biệt là những người nghèo. Hiện tại giáo hội Mennonite theo dòng tu cổ có 9.700 tín đồ thuộc 38 hội thánh cơ sở, 19 giám mục, 76 mục sư và có một trường Kinh thánh.

  1. Giáo hội Mennonite Cải cách

Giáo hội Mennonite Cải cách được thành lập từ năm 1812 ở Pennsylvania (Mỹ) dưới sự lãnh đạo của ông John Herr. Các tín đồ Mennonite Cải cách tin rằng sẽ có một giáo hội thật sự và duy nhất như nói trong Kinh thánh và đặc biệt họ thực hiện một cách nghiêm túc lời chỉ dẫn trong Kinh thánh và liên quan đến tình yêu thương và việc làm đối với những người bị lầm lỗi. Có lẽ đây là tổ chức nhỏ nhất của Mennonite chỉ có 500 tín đồ trong 12 hội thánh cơ sở bang Pennylsvania (Mỹ).

  1. Giáo hội Anh em Mennonite Bắc Mỹ

Giáo hội Anh em Mennonite Bắc Mỹ được thành lập năm 1860 bằng việc một nhóm nhỏ tín đồ rút ra khỏi Giáo hội Mennonite ơ Ukraine, sau đó năm 1876 họ di chuyển tới vùng bờ biển Thái Bình Dương và Canada.

Việc truyền giáo ra nước ngoài được thực hiện ở châu Phi, châu Á, châu Âu, Nam Mỹ và Mexico nhờ sự hỗ trợ của đài phát thanh riêng bằng các thứ tiếng Anh, Đức, Nga và viện Kinh thánh được thành lập ở Quebec (Canada) năm 1976.

Năm 1960 Giáo hội Anh em Mennonite Bắc Mỹ hợp nhất với Giáo hội Anh em Mennonite Krimmer đưa tổng số tín đồ lên 38.000 người thuộc 260 hội thánh cơ sở.

  1. Giáo hội Mennonite Công nghị

Gọi là giáo hội nhưng thực ra Giáo hội Mennonite Công nghị duy trì quy chế tổ chức hội nghị. Hàng năm có 10 hội nghị được tổ chức ở các khu vực và ba năm có một hội nghị chung để giải quyết các công việc về tổ chức. Giữa hai hội nghị có một Uỷ ban Tổng hợp.

Giáo hội Mennonite Công nghị có ba trường Kinh thánh, một Viện Thánh kinh, một trường đào tạo giáo sĩ, một số nhà dưỡng lão, bệnh viện dành cho trẻ em: Giáo hội có 35.200 tín đồ thuộc 215 hội thánh cơ sở ở Mỹ, 26.800 tín đồ thuộc 134 hội thánh cơ sở ở Canada và 12 hội thánh ở Nam Mỹ. Công việc truyền giáo của Giáo hội này đang được thực hiện ở 17 nước thu hút trên 50 ngàn người tin theo. 

  1.   Tin lành Mennonite ở Việt Nam

Tin lành Mennonite du nhập và hoạt động ở miền Nam từ năm 1954 dưới danh nghĩa một tổ chức cứu trợ xã hội với tên gọi là Uỷ ban Trung ương Mennonite (Mennonite Central Committee – MCC). Ba năm sau, các giáo sĩ Jalles Stauffer, Arlene Stauffer, Everett Metzler, Nazaret Metzler của hội truyền giáo mang tên Eastern Mennonite Board of Mission – EMBM (Hội truyền giáo Mennonite phương Đông) thuộc Giáo hội Mennonite thực hiện chương trình truyền giáo. Công việc đầu tiên của các giáo sĩ EMBM là học tiếng Việt, sau đó được sự hướng dẫn giúp đỡ của MCC và của Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền  Nam), các giáo sĩ EMBM mở các cơ sở truyền giáo đầu tiên như Phòng giảng Kinh thánh ở Dakao (Sài Gòn), lớp học Kinh thánh ở đường Phan Văn Trị (Gia Định)… Những năm 1962, 1963… lần lượt các giáo sĩ James Metzler, Luke Martin, Rachel Metzler, Mary, Donald Sensenig, Doris Sensenig… vào miền Nam truyền giáo. Các cơ sở truyền giáo của Mennonite được mở rộng đến một số địa phương khác kết hợp với các hoạt động từ thiện của MCC như ở Cần Thơ, Đà Nẵng, Nha Trang, Tây Nguyên. Hội thánh Mennonite được chính quyền Sài Gòn công nhận về mặt tổ chức vào năm 1964.

Tuy các giáo sỹ EMBM có rất nhiều cố gắng lại được MCC hỗ trợ, Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) tạo điều kiện, nhưng có lẽ do những đặc điểm rất riêng biệt, khác lạ trong sinh hoạt và lối sống nên việc truyền giáo ít mang lại kết quả. Đến năm 1975, Tin lành Mennonite ở miền Nam chỉ có khoảng 500 tín đồ và bốn cơ sở: ba cơ sở ở Sài Gòn và một cơ sở ở thành phố Cần Thơ.

Giai đoạn 1954-1975 phải kể đến những hoạt động từ thiện nhân đạo của Mennonite; chủ yếu là những hoạt động của MCC gắn với các cơ sở y tế của Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) ở Sài Gòn, Pleiku, Buôn Mê Thuột, Đà Lạt và Nha Trang. Theo đánh giá của bà Nguyễn Thị Oanh tại chuyên khảo “Viện trợ nhân đạo của Mỹ ở miền Nam Việt Nam” – Uỷ ban Khoa học xã hội TP. Hồ Chí Minh – 12/1977, thì những hoạt động từ thiện nhân đạo của Tin lành Mennonite được thực hiện theo tinh thần tôn giáo, ít bị chính trị lợi dụng và có hiệu quả hơn cả. Từ năm 1973, Tin lành Mennonite cũng tiến hành những hoạt động viện trợ nhân đạo cho miền Bắc. Tuy nhiên khác với ở miền Nam – nơi mà Tin lành Mennonite viện trợ thường xuyên, có văn phòng đại diện, ở miền Bắc, Tin lành Mennonite chỉ viện trợ khẩn cấp theo từng vụ việc.

Sau năm 1975, các giáo sỹ và nhân viên là người nước ngoài của EMBM và MCC rút về nước. Mục sư người Việt duy nhất là ông Trần Xuân Quang đi dự hội nghị tôn giáo ở Mỹ tháng 3 năm 1975 đến khi giải phóng miền Nam không trở về nữa. Các cơ sở tôn giáo, cơ sở xã hội của Tin lành Mennonite hiến cho các hoạt động từ thiện xã hội. Riêng cơ sở ở quận Bình Thạnh TP. Hồ Chí Minh vẫn duy trì hoạt động cho đến tháng 6 năm 1978 dưới sự hướng dẫn của truyền đạo Nguyễn Quang Trung.

Năm 1981 tổ chức Uỷ ban Trung ương Mennonite – MCC trở lại hoạt động viện trợ nhân đạo ở Việt Nam. Với sự trở lại của MCC, truyền đạo Nguyễn Quang Trung từng bước khôi phục hoạt động của Hội thánh Mennonite Việt Nam. Tháng 7 năm 2003 các hội thánh Mennonite tại Việt Nam thành lập Tổng giáo hạt Tin lành Mennonite Việt Nam và ra mắt Ban điều hành Tổng giáo hạt gồm 14 người do ông Nguyễn Quang Trung làm hội trưởng.  Đến nay hội thánh có khoảng 7000  tín đồ; 137 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo; 90 điểm nhóm ở 23 tỉnh, thành phố trong cả nước, tập trung đông nhất ở các tỉnh Gia Lai, Bình Phước, Quảng Ngãi, Tp Hồ Chí Minh. Trụ sở tạm thời hiện nay của Hội thánh đặt tại 67/107 Bùi Đình Tuý, phường 12 quận Bình Thạnh, Tp Hồ Chí Minh.

Ngày 25/7/2007 Hội thánh Mennonite Việt Nam do mục sư Nguyễn Quang Trung làm đại diện có đơn và hồ sơ xin đăng ký hoạt động gửi Ban Tôn giáo Chính phủ. Sau một thời gian xem xét hồ sơ, ngày 26/9/2007 Ban Tôn giáo Chính phủ đã cấp Giấy Chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho Hội thánh Mennonite Việt Nam (số 811/2007/GCN-TGCP). Thực hiện Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, được sự đồng ý của Ban Tôn giáo Chính phủ và UBND Tp Hồ Chí Minh từ 15-17/11/2008 tại Tp Hồ Chí Minh, Hội thánh Mennonite Việt Nam tổ chức Đại hội đồng lần thứ nhất (lần thứ 2 theo lịch sử giáo hội) nhiệm kỳ 2008-2012. Về tổ chức, Hội thánh Mennonite Việt Nam được tổ chức thành 2 cấp: Tổng hội (Trung ương) và chi hội (cơ sở), hoạt động theo đường hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”.           Ngày 5/2/2009 Trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ đã ký quyết định số 12/2009/QĐ-TGCP về việc công nhận tổ chức tôn giáo đối với Hội thánh Mennonite Việt Nam./.

 

Nguyễn Đăng Bản

nguồn : https://btgcp.gov.vn/gioi-thieu-cac-to-chuc-ton-giao-da-duoc-cong-nhan/Khai_quat_ve_he_phai_Tin_lanh_Mennonite_tren_the_gioi_va_Viet_Nam-post1p2koVqR.html

Đại hội đồng lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam – Năm 2016

Đại hội đồng lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam – Năm 2016

Đại hội đồng lần thứ III

Hội thánh Mennonite Việt Nam

QUỐC ĐỊNH

Với chủ đề “Giữ gìn sự hiệp một của Thánh linh”, Đại hội lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam bao gồm các nội dung: Bồi linh – Thông công, báo cáo nhiệm kỳ (2012 – 2016), bầu cử Ban Trị sự nhiệm kỳ 2016-2020, thông qua kế hoạch công tác nhiệm kỳ tới.

Từ ngày 1-2/12, tại TP HCM, Hội thánh Mennonite Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ III. Tới tham dự có ông Hà Ngọc Anh, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Ông Trần Tấn Hùng, Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ; đại diện Cục An ninh Xã hội, Bộ Công an; đại diện các cơ quan, ban ngành TP HCM; các đại biểu nước ngoài; 258 đại biểu chính thức, 30 đại biểu không chính thức và hàng trăm đại biểu dự thính là các tín đồ trong Hội thánh từ 24 tỉnh, thành phố.

Với chủ đề “Giữ gìn sự hiệp một của Thánh linh”, Đại hội bao gồm các nội dung: Bồi linh – Thông công, báo cáo nhiệm kỳ (2012 – 2016), bầu cử Ban Trị sự nhiệm kỳ 2016-2020, thông qua kế hoạch công tác nhiệm kỳ tới.

Đại diện Ban tổ chức, cho biết, trong nhiệm kỳ vừa qua (2012 – 2016), Hội thánh đã đạt được nhiều kết quả trong công tác tổ chức, hoạt động mục vụ, bồi dưỡng đào tạo, tấn phong mục sư, xây dựng nhà nguyện, truyền giáo, từ thiện xã hội…

Hệ phái Tin lành Mennonite ra đời cùng với phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu vào thế kỷ XVI, và hoạt động ở miền Nam Việt Nam từ 1954. Sau năm 1975 các giáo sỹ và nhân viên nước ngoài rút về nước. Từ 1981 tổ chức Ủy ban Trung ương Mennonite – MCC trở lại hoạt động viện trợ nhân đạo ở Việt Nam. Năm 1991, MCC được Chính phủ Việt Nam cho lập văn phòng đại diện tại Hà Nội. Đầu năm 1983, mục sư Nguyễn Quang Trung tái lập lại các hoạt động của Hội thánh Mennonite Việt Nam.

Đến nay, Hội thánh Mennonite Việt Nam có trên 10.000 tín đồ, 178 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo, 5 chi hội, 1 hội nhánh, 87 điểm nhóm, phạm vi ở 25 tỉnh, thành phố trong cả nước, tập trung đông nhất ở các tỉnh Gia Lai, Bình Phước, Quảng Ngãi, TP HCM.

Thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, sự chấp thuận của các cấp chính quyền, Hội thánh Mennonite Việt Nam tổ chức Đại hội đồng lần thứ nhất vào năm 2008. Sau đó, Hội thánh đã được Nhà nước công nhận về mặt tổ chức ngày 5/2/2009.

Phát biểu tại đây, ông Trần Tấn Hùng đánh giá: Dưới sự lãnh đạo của Ban Trị sự Tổng hội và mục sư Hội trưởng Nguyễn Quang Trung dẫn dắt, Hội thánh Mennonite Việt Nam đã cơ bản vượt qua những khó khăn, từng bước củng cố và hoàn thiện trong các hoạt động mục vụ và luôn chứng tỏ là một Hội thánh độc lập, gắn bó với dân tộc.

Các chức sắc, chức việc và tín hữu của Hội thánh đã cùng đồng bào các tôn giáo khác và đồng bào cả nước tích cực tham gia các phong trào lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa mới và hưởng ứng các phong trào đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo…đóng góp phần mình vào sự nghiệp chung của đất nước.

Ông Hùng mong rằng, tín đồ, chức sắc của Hội thánh tiếp tục phát huy kết quả đạt được, đồng thời luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực xấu. Hội thánh sẽ tiếp tục phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước, đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh.

Cũng theo ông Hùng, chính sách nhất quán trước sau như một của Nhà nước là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật và không có sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo; đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích những hoạt động tôn giáo tiến bộ vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Nhà nước ủng hộ nguyện vọng của Hội thánh Mennonite Việt Nam xây dựng Hội thánh theo tôn chỉ, mục đích và đường hướng hoạt động đã được trịnh trọng xác định trong Hiến chương của Hội thánh thông qua tại Đại hội lần thứ nhất “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”.

nguồn: http://daidoanket.vn/dai-hoi-dong-lan-thu-iii-hoi-thanh-mennonite-viet-nam-138294.html

 

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Hội thánh Mennonite Việt Nam

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Hội thánh Mennonite Việt Nam

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho

Hội thánh Mennonite Việt Nam

Hội thánh được hình thành từ năm 1957, tái lập vào năm 1983, hoạt động với đường hướng tiến bộ là “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”.

Sáng 11/2, Lễ trao quyết định công nhận tổ chức Hội thánh Mennonite Việt Nam đã được tổ chức tại trụ sở Ban Tôn giáo Chính phủ (Hà Nội).
Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Thế Doanh đã trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Mục sư Nguyễn Quang Trung (người đại diện, Hội trưởng Hội thánh Mennonite Việt Nam). Theo đó, Hội thánh Mennonite Việt Nam được hoạt động tôn giáo theo pháp luật Việt Nam và Hiến chương đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, trụ sở tạm thời tại 67/107 Bùi Đình Túy (phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh).

Trải qua hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Hội thánh Mennonite Việt Nam một mặt vẫn duy trì sinh hoạt tôn giáo liên tục, một mặt đã thể hiện lòng yêu nước gắn bó với dân tộc, cầu nguyện cho hòa bình, công bằng, bác ái, sống tốt đời đẹp đạo, góp phần xây dựng đời sống tinh thần và đạo đức xã hội.

Hiện nay, Hội thánh có trên 6.000 tín đồ, 137 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo, 90 điểm nhóm hoạt động ở 24 tỉnh thành phố trong cả nước, là một trong những tổ chức hệ phái Tin lành có số tín hữu sinh hoạt trên địa bàn rộng.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Thế Doanh nhiệt liệt chúc mừng và chia vui với mục sư Hội trưởng, các thành viên Ban trị sự Tổng Giáo hội, toàn thể tín đồ, chức sắc của Hội thánh và nhấn mạnh lễ trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo là dấu mốc quan trọng, đánh dấu từ thời khắc này, Hội thánh Mennonite Việt Nam có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của một tố chức tôn giáo hoàn chỉnh. Đây là cơ sở vững chắc cho việc tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc để cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước ngày một văn minh, giàu đẹp.

Ông Nguyễn Thế Doanh mong muốn với vị thế mới, trên cơ sở phát huy truyền thống gắn bó cùng dân tộc, bằng việc tuân thủ pháp luật, hành đạo theo đường hướng tiến bộ, Hội thánh sẽ tiếp tục phát triển, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thay mặt Ban trị sự Tổng Giáo hội, mục sư Nguyễn Quang Trung bày tỏ sự vui mừng khi Hội thánh Mennonite Việt Nam chính thức được nhận quyết định công nhận tổ chức tôn giáo. Mục sư chân thành cảm ơn Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chăm lo cho các hệ phái tôn giáo trong đó có Hội thánh; gửi lời cảm ơn tới các cấp, ngành, chính quyền các địa phương nhiệt tình hỗ trợ trong quá trình đăng ký hoạt động.

* Trong sáng 11/2, Ban trị sự Hội thánh Mennonite Việt Nam do mục sư Nguyễn Quang Trung dẫn đầu đã đến chào thăm Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (TƯ MTTQ) Việt Nam.

Thay mặt Ủy ban TƯ MTTQ, ông Trần Đình Phùng, Ủy viên thường trực chúc mừng Hội thánh được trao quyết định chính thức công nhận; việc làm thể hiện sự quan tâm, tôn trọng của Đảng, Nhà nước ta tới quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tổ chức, cá nhân, đáp ứng nguyện vọng của đồng bào có đạo.

Thường trực Ủy ban TƯ MTTQ biểu dương những đóng góp của Hội thánh trong thời gian qua và mong muốn Hội thánh tiếp tục phát huy truyền thống, những giá trị tốt đẹp của tôn giáo mình, thực hiện đoàn kết, gắn bó, sống tốt đời, đẹp đạo; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát triển KT-XH để đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Khẳng định mọi tôn giáo đều bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, đất nước có hòa bình, nâng cao vị thế thì các tôn giáo mới có điều kiện phát triển, Thường trực Ủy ban TƯ MTTQ tin tưởng sau khi được công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân, Hội thánh sẽ hoạt động tốt trên mọi lĩnh vực, thực hiện phương châm đồng hành cùng dân tộc, cùng các tôn giáo khác đoàn kết thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Mục sư Nguyễn Quang Trung thay mặt Ban trị sự Hội thánh cảm ơn Ủy ban TƯ MTTQ có sự điều hành thóng nhất từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố, hỗ trợ cho tôn giáo về đoàn kết chung. Nêu rõ Hội thánh Mennonite Việt Nam vừa lo công việc Hội thánh, vừa tham gia công việc xã hội, giúp đỡ đồng bào, mục sư Hội trưởng tin rằng trong tương lai Hội thánh sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Ủy ban TƯ MTTQ.

* Chiều cùng ngày, Ban trị sự Hội thánh Mennonite Việt Nam do mục sư Nguyễn Quang Trung dẫn đầu đã đến chào thăm Ban Dân vận Trung ương.

Thay mặt Ban Dân vận Trung ương, Phó Trưởng ban Nguyễn Mạnh Hùng chúc mừng Hội thánh được trao quyết định chính thức công nhận và biểu dương những đóng góp của Hội thánh trong việc vận động các tín hữu tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội, sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững.

Phó Trưởng ban Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi cá nhân, mọi tôn giáo đều bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và tin tưởng với phương châm đồng hành cùng dân tộc, Hội thánh sẽ tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thay mặt Ban trị sự, Mục sư Nguyễn Quang Trung cảm ơn Ban Dân vận Trung ương đã giúp đỡ Hội thánh, nhất là trong quá trình đăng ký hoạt động. Mục sư Nguyễn Quang Trung khẳng định: với đường hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”, Hội thánh sẽ tiếp tục vận động các tín hữu sống tốt đời, đẹp đạo, tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, góp sức xây dựng đất nước ngày một văn minh, giàu đẹp./.

nguồn: https://vov.vn/chinh-tri/trao-quyet-dinh-cong-nhan-to-chuc-ton-giao-cho-hoi-thanh-mennonite-viet-nam-104883.vov

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Nguồn: Đài Xuyên Thế Giới

 

Kinh thánh là một tuyển tập gồm 66 sách. Vì sao tuyển tập nầy được gọi là thánh? Chữ thánh chỉ những điều “thuộc về Đức Chúa Trời”, “đến từ Đức Chúa Trời” hoặc “có liên hệ với Đức Chúa Trời.” Đức Chúa Trời là cội nguồn. Đây chính là ý niệm của chữ “thánh”. Theo đó, “thánh” với ý nghĩa chính là chỉ điều thuộc về Đức Chúa Trời. Sở dĩ bộ 66 sách nầy được gọi là thánh, vì nó xuất phát từ Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời. Nó chứa đựng thông điệp của Đức Chúa Trời cho nhân loại.

 

Để truyền đạt thông điệp đó, Ngài cảm động khoảng 40 trước giả để viết nên Kinh thánh. Các trước giả đã được cảm động để những lời họ viết ra không phải là của họ, nhưng là lời của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh đã được viết trong suốt thời gian khoảng 1500 năm đến 1600 năm.

 

Tiến trình mà Đức Chúa Trời cảm động các trước giả để viết nên Kinh thánh gọi là sự linh cảm, hoặc cảm động, hoặc cảm thúc. Phao-lô nói rằng, những cuốn sách nầy đến từ Đức Chúa Trời bởi sự linh cảm. Từ ngữ “linh cảm” có nghĩa là “thổi vào”. Chính Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời thổi vào hay hà hơi vào những người nầy, cảm thúc họ viết nên Kinh thánh. Phi-e-rơ nói về Kinh thánh như thế nầy: “Vả, khi chúng tôi đã làm cho anh em biết quyền phép và sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, thì chẳng phải là theo những chuyện khéo đặt để, bèn là chính mắt chúng tôi đã ngó thấy sự oai nghiêm Ngài. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2 Phi-e-rơ1:16,21)

Trong khi sứ đồ Phao-lô trình bày về tiến trình hà hơi hay linh cảm, Phi-e-rơ giải thích linh cảm có ý nghĩa gì. Phi-e-rơ nói  rằng: Sứ điệp mà các trước giả viết trong Kinh thánh không xuất phát từ họ mà bắt nguồn từ Đức Chúa Trời. Tất cả mọi sứ điệp viết trong Kinh thánh đều được linh cảm và xuất phát từ Đức Chúa Trời. Chính Ngài truyền đạt những sứ điệp nầy cho con người bởi sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.

 

Phi-e-rơ dùng một chữ rất hay trong tiếng Hy Lạp, đó là chữ “phe-rô”. Từ chữ nầy mà chúng ta có chữ “ferry” nghĩa là phà hay thuyền. Đây là chữ mà Phi-e-rơ dùng khi ông diễn tả việc Đức Chúa Trời cảm động lòng những người viết Kinh thánh, như hình ảnh của gió thúc đẩy chiếc thuyền đi tới. Đó chính là ý nghĩa của chữ  linh cảm hay hà hơi theo Phi-e-rơ.

 

Nhóm từ “Lời hằng sống của Đức Chúa Trời” không được áp dụng cho Kinh thánh nhưng cho Chúa Jêsus. Kinh thánh được gọi là “Lời thành văn của Đức Chúa Trời”, song Chúa Jêsus được gọi là “Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời”. Mọi điều thuộc về Ngài, mọi lời Ngài nói, mọi việc Ngài làm chính là lời của Đức Chúa Trời phán với chúng ta. Đức Chúa Trời đã nói nhiều điều rất quan trọng cho chúng ta qua Kinh thánh; song Ngài còn nói nhiều điều quan trọng hơn nữa cho chúng ta qua con Ngài là Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho loài người qua đời sống và sự giảng dạy của Chúa Jêsus hơn bất cứ cách nào khác. Do đó, Chúa Jêsus được gọi là “Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời”.

 

Chúng ta nghe có người nói rằng, “Ông mục sư đó thật sự giảng lời của Đức Chúa Trời.” Sự giảng dạy lời Đức Chúa Trời đem lại những phép lạ lớn lao. Có người diễn tả thế nầy: Khi Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng, Đức Thánh Linh dùng lời của Ngài được truyền đạt qua tôi tớ của Ngài để biến người nghe trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Sứ đồ  Phao-lô nói rằng, “Đức Chúa Trời lấy làm vui  lòng dùng sự giảng rồ dại của chúng ta mà cứu rỗi những người tin cậy.” (1 Côr 1:21b).  Phao-lô không thể hiểu được điều nầy, nhưng ông tin chắc chắn điều đó và tận hiến cuộc đời để rao giảng Phúc âm.  Khi Phao-lô đến một nơi nào và tuyên bố Tin lành của Chúa Jêsus, ông khám phá rằng, Lời của Đức Chúa Trời hay là sứ điệp của Đức Chúa Trời được rao giảng bởi người của Ngài, là người được cai trị bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời thì nhiều người được cứu.

 

Bây giờ, tôi xin trình bày vài điều về cách cấu tạo của Kinh thánh. Chúng ta sẽ bắt đầu với những bước rất là căn bản. Nếu quí vị là người đã nghiên cứu Kinh thánh rồi, xin kiên nhẫn vì trong một vài chương sắp tới sẽ có những bài phù hợp với trình độ của quí vị.  Điều quan trọng cần biết: đó là 66 sách của Kinh thánh không được sắp xếp theo thứ tự thời gian được viết ra, hoặc thời gian các tác giả đã sinh sống. Sáu mươi sáu sách của Kinh thánh được sắp xếp trên căn bản từng loại sách và được chia làm hai phần: một phần gọi là Cựu ước gồm 39 sách, phần kia gọi là Tân ước gồm 27 sách. Trong thời Chúa Jêsus chưa có Tân ước, nên Kinh thánh chỉ có Cựu ước. Khi Tân ước đã được viết ra và được kết hợp với Cựu ước thì có sự phân biệt giữa Cựu ước và Tân ước.

 

Sứ điệp chính yếu của Cựu ước là Chúa Jêsus sắp đến; còn sứ điệp của Tân ước là Chúa Jêsus đã đến. Theo Kinh thánh, lúc ban đầu Đức Chúa Trời và loài người sống hòa hợp với nhau. Song, Đức Chúa Trời tạo nên con người là một tạo vật có khả năng lựa chọn và con người đã lựa chọn khước từ Đức Chúa Trời thay vì vâng phục Ngài. Bởi vì Đức Chúa Trời không chấp nhận sự bất tuân và nổi loạn nên con người không còn được ở trong mối tương giao với Ngài như lúc ban đầu. Con người bị đuổi ra khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đây chính là nan đề căn bản mà các cuốn sách Thánh đề cập đến.

 

Trong Cựu ước, Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng, “Ta có một  giải pháp về tình trạng chia cách giữa Ta và ngươi, ngươi có tin ta không?” Trong  Tân ước, Đức Chúa Trời nói với chúng Ta, “Ta đã hoàn thành một giải pháp về tình trạng phân cách giữa Ta và ngươi, vậy ngươi có tin Ta không?” Quí vị thấy không, Cựu ước nói rằng Chúa Jêsus sắp đến và Ngài sẽ hòa giải vấn đề phân cách giữa Đức Chúa Trời và tạo vật của Ngài. Còn Tân ước thông báo tin tức tốt lành nầy đã trở thành hiện thực, Chúa Jêsus đã đến và Ngài đã hòa giải giữa Đức Chúa Trời và con người. Phúc âm Mác đúc kết cả Tân ước qua câu “Chúa Jêsus đã đến.”

 

Bây giờ, chúng ta tìm hiểu khái quát về Cựu ước. Cựu ước gồm có 5 loại sách khác nhau. Trước tiên là năm cuốn sách Luật pháp, do chính Đức Chúa Trời phán dạy. Qua các sách Luật pháp, Chúa nói với chúng ta điều gì đúng, điều gì sai. Chúa dạy cho chúng ta về tiêu chuẩn công nghĩa của Ngài.

 

Năm sách luật pháp được nối tiếp bởi mười sách lịch sử. Mười sách lịch sử cho biết rằng, có khi dân sự của Đức Chúa Trời tuân thủ các điều luật Chúa, có khi họ bất tuân. Khi tuân thủ luật pháp Chúa, dân sự của Đức Chúa Trời được phước và trở nên gương tốt để chúng ta noi theo. Khi bất tuân, họ bị sửa phạt và trở nên điều cảnh cáo cho chúng ta là những người sống vào thời kỳ cuối cùng.

 

Câu Kinh thánh I Côr 10:11 là chìa khóa cho những sách lịch sử:

Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.

Khi đọc những sách lịch sử, chúng ta tìm xem các gương tốt để noi theo và những gương xấu để tránh xa.

 

Tiếp theo các sách lịch sử là các sách thơ văn. Các sách thơ văn là sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con cái Chúa khi họ áp dụng lời của Ngài vào trong cuộc sống hằng ngày. Qua các sách thơ văn, Đức Chúa Trời truyền sứ điệp của Ngài đến nơi sâu kín của lòng người. Ví dụ, sách Gióp là sứ điệp cho dân sự của Ngài khi họ đau khổ. Sách Thi thiên là sứ điệp cho dân sự của Ngài khi họ thờ phượng. Sách Châm ngôn là sứ điệp cho con cái Chúa khi họ va chạm với cuộc sống hằng ngày. Chúa muốn chúng ta có sự khôn ngoan thực tế trong quan hệ với mọi hạng người. Sách Truyền đạo là sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con dân của Ngài khi họ có sự ngờ vực trong lòng. Sách Nhã ca là sứ điệp cho những người đang yêu nhau. Nó gồm những mẫu đối thoại yêu đương của cặp tình nhân trong những ngày hạnh phúc nồng thắm.

 

Phần tiếp theo các sách văn thơ của Cựu ước là phần nhiều nhất theo số chương và số câu. Nó được gọi là “Tiên tri”, và được phân làm hai theo kích thước. Một loại là các sách Tiên tri lớn và một loại là các sách Tiên tri nhỏ. Các sách được gọi là tiên tri lớn không phải vì nó cao sâu hơn hay quan trọng hơn; còn các sách gọi là tiên tri  nhỏ không phải vì nó thấp hơn hay thứ yếu, nhưng sự phân loại căn cứ trên độ dài của sách. Các sách tiên tri lớn có từ 48 chương cho đến 66 chương. Còn các sách tiên tri nhỏ có từ 1 chương, 2 chương hoặc 3 chương. Có lẽ, tác giả của các sách tiên tri nhỏ là những người trình bày gọn vì họ đã gói ghém sứ điệp của họ cô đọng hơn. Đó là phần khái quát của Cựu ước.

 

Trong Tân ước chúng ta cũng có 5 loại. Trước tiên có 4 sách nói về cuộc đời của Chúa Jêsus:  Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Các cuốn sách nầy trình bày những khía cạnh khác nhau về một cuộc đời quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: cuộc đời của Chúa Jêsus.

 

Thứ hai: sách lịch sử là sách Công vụ các sứ đồ, ghi chép lại lịch sử khai sinh và phát triển của Hội thánh đầu tiên trong thời các sứ đồ.

 

Thứ ba là các thư tín của Phao-lô và thứ tư là các thư tín tổng quát. Một nửa Tân ước gồm các thư tín của Phao-lô. Bên cạnh đó, có các thư tín tổng quát vì chúng được viết bởi các sứ đồ khác gởi cho các tín hữu, là những người tản mạn và sống ở những địa điểm khác nhau.

 

Tân ước kết thúc với loại thứ năm, một sách tiên tri là sách Khải huyền. Đó là sách gồm các biểu tượng. Chúng ta cần  Đức Thánh Linh dạy dỗ cách đặc biệt để hiểu đúng sách Khải huyền.

 

Vậy Kinh thánh có 66 sách. Những sách nầy không được sắp xếp theo thứ tự thời gian khi chúng được viết ra, nhưng theo nội dung từng loại sách. Có 5 loại sách trong Cựu ước: sách luật pháp, sách lịch sử, sách văn thơ sách tiên tri lớn và tiên tri nhỏ. Có 5 loại sách trong Tân ước: bốn sách Phúc âm, một sách lịch sử, thư tín của Phao-lô, thư tín tổng quát và một sách tiên tri là sách Khải huyền.

 

Sứ điệp của Cựu ước là Chúa Jêsus sắp đến; sứ điệp của Tân ước là Chúa Jêsus đã đến.

 

Bây giờ, bài tập đầu tiên dành cho quí vị: xin học thuộc lòng tên các sách trong Kinh thánh ở phần mục lục. Điều nầy giúp quí vị lật nhanh và đúng để tiện việc học biết lời Chúa.

 

 

Bài 1: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 1)

Bài 1: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 1)

Nguồn: Đài Xuyên Thế Giới

Hội Thánh Mennonite Việt Nam

hoithanhmennonitevn.com

 

Hoan nghinh quí vị đến với chương trình Thánh Kinh Lược Khảo. Việc theo đuổi chương trình này được ví như chúng ta cùng tham gia cuộc hành trình chung với nhau. Chúng ta sẽ cùng học toàn bộ Kinh thánh, Cựu ước và Tân ước. Xin sắp xếp để tham gia khóa học với chúng tôi, đồng thời quí vị cũng mời người khác cùng dự khóa học này.

 

Chúng ta sẽ học 66 sách trong Kinh thánh một cách tổng quát. Khi lược khảo 66 sách của Kinh thánh, chúng ta lần lượt tìm hiểu các vấn đề sau:

 

Thứ nhất                    : Nội dung từng sách của Kinh thánh.

Thứ hai                      : Bố cục của sách.

Thứ ba                    : Điều quan trọng hơn chính là sứ điệp bồi linh của từng sách; hay nói rõ hơn, đó là sự áp dụng thực tiễn của Kinh thánh vào đời sống hằng ngày.

 

Khóa học này được soạn thảo cho các tín hữu. Tôi tin rằng tiềm năng của Hội thánh tập trung nơi những tín hữu bình thường nầy. Sứ đồ Phao lô chia sẻ khải tượng đó với chúng ta khi ông dạy trong Êphêsô 4:12 rằng: Mục đích của chúng ta khi nhóm hiệp lại là để trang bị cho nhau, hầu phát triển công việc Chúa và gây dựng thân thể Đấng Christ. Công việc Chúa được ủy thác cho các thánh đồ là những người bình thường; và nếu muốn thấy công việc Chúa được phát triển, chúng ta cần trang bị cho các tín hữu. Nếu tại một Hội thánh mà công việc Chúa chỉ tập trung vào Mục sư, Ban trị sự hoặc chỉ một vài người nòng cốt thì Hội thánh đó không thể phát triển mạnh được.  Mục đích của khóa học nầy là trang bị nền tảng Kinh thánh cho các tín hữu, để họ chia sẻ niềm tin một cách hữu hiệu hơn trong cuộc sống hằng ngày. Khi được trang bị đầy đủ, họ sẽ mạnh dạn để chia sẻ niềm tin cho những người thân trong gia đình, cho bạn hữu và cho bà con lối xóm. Đặc biệt, chương trình này cũng giúp trang bị cho các nhân sự trong Hội thánh, các giáo viên Trường Chúa nhật và những người khác đang phục vụ trong Hội thánh bằng cách cung cấp cho họ sự hiểu biết căn bản về Kinh thánh.

 

Để bắt đầu, tôi xin được nhắc rằng khóa học sẽ mang lại kết quả lớn lao nếu quí vị cố gắng làm các bài tập sẽ được thông báo. Sứ đồ Phaolô dạy, chỉ có một cách tránh sự bỡ ngỡ khi phải đối diện với các vấn nạn trong Kinh thánh đó là phải học hỏi Kinh thánh. Điều này có nghĩa: cách duy nhất để thực sự hiểu Kinh thánh đó là học Kinh thánh. Nói rõ hơn, quí vị hãy quyết định không bỏ qua một bài học nào, nghiên cứu và hoàn thành các bài tập sẽ được cho.

 

Khóa học nầy sẽ rất bổ ích cho những ai đang hoạt động trong các công trường thuộc linh cũng như lãnh vực truyền giáo. Nếu ao ước được phục vụ Chúa hữu hiệu hơn, quí vị sẽ ham thích để đi sâu hơn trong sự học hỏi Lời của Ngài.

 

Tôi cũng xin phép được trình bày vài điều cần phải có khi chúng ta bắt đầu khóa học nầy. Bất cứ ai hành nghề cũng cần có dụng cụ; đồng thời, cũng phải biết cách sử dụng nó. Những người thợ mộc, thợ nề, nha sĩ, bác sĩ… đều có dụng cụ hành nghề. Họ cũng phải biết cách sử dụng các dụng cụ như thế nào nữa. Tương tự, để việc học hỏi lời Chúa có kết quả, quí vị cần có các dụng cụ hay các sách tham khảo sau đây:

 

Trước hết, đó là Kinh thánh. Tôi xin đề nghị quí vị nên có một cuốn Kinh thánh được đóng chắc chắn; nếu không thì sau một thời gian lật qua lật lại, nó sẽ bị rách nát và không thể dùng được nữa. Xin đừng ngần ngại mà đánh dấu trong Kinh thánh, nếu có thể được xin dùng những màu sắc khác nhau khi đánh dấu. Điều nầy hữu ích vì nó giúp quí vị nhớ lại những ý đã học cũng như những phân đoạn quan trọng. Làm được như vậy, quí vị sẽ rất quen thuộc với cuốn Kinh thánh của mình. Bên cạnh cuốn Kinh thánh Tân Cựu ước hiện đang lưu hành phổ thông, quí vị có thể đối chiếu với các bản dịch khác. Khi đối chiếu giữa các bản dịch với nhau, nhất  là ở những chỗ khó hiểu, sẽ giúp chúng ta hiểu Kinh thánh rõ hơn.

 

Tiếp theo là Thánh Kinh tự điển.  Đây là cuốn sách giải thích từng nhân vật, địa điểm hay các sự việc trong Kinh thánh. Chẳng hạn, nếu muốn tìm hiểu về Vua Đa vít, Thánh kinh Tự điển sẽ tổng hợp những chi tiết liên quan về Đa vít; và từ đó, giúp cho quí vị có cái nhìn tổng quát về vị Vua nầy. Hoặc nếu có dịp tham quan vùng Đất Thánh và có Thánh Kinh tự điển trong tay, quí vị có thể hiểu biết cặn kẽ về từng địa danh của vùng Đất Thánh.

 

Thứ ba là Thánh kinh Phù dẫn. Thánh kinh phù dẫn là cuốn sách liệt kê từng chữ, từng câu có cùng chung một ý trong Kinh thánh và cho chúng ta biết địa chỉ của nó.  Nếu quí vị đặt câu hỏi với các học giả Kinh thánh rằng: “Nếu ông bị lạc trên một hoang đảo và chỉ có thể mang theo một cuốn sách ngoài Kinh thánh, thì đó sẽ là cuốn gì?” Nhiều người sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng: “Thánh kinh Phù dẫn”. Trước tiên, Thánh kinh Phù dẫn hết sức có giá trị bởi vì quí vị có thể học Kinh thánh theo chủ đề. Quí vị có thể tìm thấy trong Thánh kinh Phù dẫn về bất cứ một ý niệm hay chủ đề nào trong Kinh thánh; nó sẽ cho chúng ta biết địa chỉ của chữ đó từ Sáng thế ký cho đến Khải huyền. Ví dụ, khi muốn học về đề tài bình an, quí vị có thể lật đến trang có liệt kê chữ bình an và tìm thấy tất cả những câu Kinh thánh có chữ bình an.  Điều nầy giúp quí vị có cái nhìn bao quát và nhanh chóng về chủ đề cần nghiên cứu. Đó là lý do tại sao các học giả Kinh thánh rất ưa chuộng Thánh kinh Phù dẫn.

 

Một lý do khác khiến Thánh kinh Phù dẫn rất quí báu, đó là nó giúp quí vị xác định địa chỉ của các câu Kinh thánh. Nếu người nào hỏi quí vị, “Trong Kinh thánh chỗ nào chép lòng tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác?” Quí vị có thể lật ra những phần chép về lòng tham, hoặc tiền bạc, hoặc cội rễ  hoặc điều ác và nhanh chóng xác định địa chỉ của câu Kinh thánh liên quan đến chủ đề trên.

 

Cuối cùng là Thánh kinh giải nghĩa. Đây là sách tham khảo rất tốt giúp quí vị hiểu Kinh thánh cặn kẽ hơn. Các tập cẩm nang của chúng tôi giống như cuốn giải nghĩa Kinh thánh nhỏ. Hãy liên hệ với chúng tôi để nhận được các tập sách nầy vì nó rất quan trọng giúp quí vị học, hiểu và rồi dạy lại cho người khác. Chắc chắn có một lúc nào đó, khi người khác hỏi về Kinh thánh, quí vị muốn mình có thể trả lời một cách chính xác.

 

Trong các sách Phúc âm, Chúa Giê xu hiện ra với các vị sứ đồ sau khi Ngài sống lại và chia sẻ với họ những dữ kiện về Kinh thánh. Bởi việc đó mà điều kỳ diệu sau đây đã được Kinh thánh ghi lại: “Lần đầu tiên trong cuộc đời, họ hiểu Kinh thánh”. Những dữ kiện về Kinh thánh mà Chúa Giê xu đã chia sẻ với các vị sứ đồ đã khiến họ hiểu Kinh thánh. Trong tinh thần đó, tôi xin phép được chia sẻ vài dữ kiện về Kinh thánh; và hy vọng rằng, những dữ kiện nầy giúp quí vị hiểu Kinh thánh. Trước tiên, xin chúng ta hãy suy nghĩ về định nghĩa của Kinh thánh. Kinh thánh là gì?

 

Chữ Kinh thánh gồm hai chữ Kinh và Thánh. Chữ Kinh đến từ chữ “biblia” có nghĩa là một bộ gồm nhiều cuốn sách chớ không phải một cuốn. Kinh thánh là tuyển tập gồm 66 sách.

 

Vì sao lại tuyển tập nầy được gọi là thánh?  Chữ thánh chỉ những điều “thuộc về Đức Chúa Trời” hay “đến từ Đức Chúa Trời” hay “có liên hệ với Đức Chúa Trời.” Đức Chúa Trời là cội nguồn. Đây chính là ý niệm của chữ “thánh”. Theo đó “thánh” với ý nghĩa chính là chỉ điều thuộc về Đức Chúa Trời. Sở dĩ, bộ 66 sách được gọi là thánh vì nó xuất phát từ Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời. Nó chứa đựng thông điệp của Đức Chúa Trời cho nhân loại. Điều này khiến Kinh thánh trở nên cuốn sách quan trọng nhất trên thế giới. Đó là lý do vì sao chúng ta sẽ học cuốn sách nầy. Kinh thánh chính là cuốn sách của Đức Chúa Trời dành cho chúng ta.

 

Cuốn sách này cũng được xem là Lời của Đức Chúa Trời. Vì sao chúng ta nói rằng đây là lời của Đức Chúa Trời? Xin hãy lắng nghe lời của sứ đồ  nói về Kinh thánh. II Ti mô thê 3:16,17: “Cả Kinh thánh đều là bởi Đức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình,hầu cho người thuộc về Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sắm sẵn để làm mọi việc lành.” Qua hai câu Kinh thánh nầy, Sứ đồ Phao lô muốn nói rằng, Đức Chúa Trời có một sứ điệp mà Ngài muốn truyền đạt cho con người; và để truyền đạt sứ điệp đó, Chúa đã cảm động khoảng 40 trước giả để viết nên Kinh thánh. Các trước giả đã được cảm động để những lời họ viết ra không phải là của họ, nhưng là lời của Đức Chúa Trời. Kinh thánh đã được viết trong suốt thời gian khoảng 1500 năm đến 1600 năm. Các tác phẩm của họ đã trở nên tập sách mà ngày nay chúng ta gọi là Kinh thánh. Trong bài đến, chúng ta sẽ tiếp tục phần dẫn nhập “Sự học hỏi quan trọng nhất”, đó là học hỏi lời Đức Chúa Trời.

 

Ba Câu Hỏi Quan Trọng

Ba Câu Hỏi Quan Trọng

Ba Câu Hỏi Quan Trọng

 

Sống trên đời, mỗi người chúng ta đều gặp rất nhiều câu hỏi và tìm cách trả lời. Tuy nhiên không có câu hỏi nào quan trọng bằng 3 câu sau đây, vốn đã làm các triết gia và khoa học gia bối rối từ xưa đến nay. Chắc hẳn đôi khi chính bạn cũng băn khoăn về 3 câu hỏi ấy. Đó là

 

1) Con người từ đâu đến đây?
2) Con người sống trên đời nầy để làm gì?
3) Sau khi qua đời, con người sẽ đi đâu?

 

  1. Con người từ đâu đến đây? Cho đến thời Trung Cổ, người ta vẫn tin rằng quả đất là trung tâm của vũ trụ, và con người là trung tâm của quả đất. Nhưng ngày nay chúng ta biết quả đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ rộng lớn vô cùng, và con người còn nhỏ bé hơn nữa.

 

Đến giờ nầy khoa học chưa tìm ra sự sống ở nơi nào khác trong vũ trụ ngoài quả đất của chúng ta. Cho nên bạn thắc mắc: Thế thì con người từ đâu mà ra? Tại sao loài người và sinh vật chỉ có trên quả đất tí teo nầy? Là người biết suy luận và có đôi chút kiến thức khoa học, bạn không thể tin vào thuyết ngẫu sinh chủ trương rằng con người tự nhiên mà có. Tuy nhiên Thánh Kinh cho bạn câu trả lời. Sách Sáng thế chương 1, câu 1 viết như sau: “Ban đầu Thượng Đế dựng nên vũ trụ”1 và câu 26 cũng cùng chương ấy viết “Thượng Đế bảo: Chúng ta hãy tạo dựng con người theo hình ảnh chúng ta.”2

 

Như thế, chúng ta biết con người do Thượng Đế tạo nên chứ không phải tự nhiên mà có. Đấng tạo nên con người và tất cả sinh vật trên quả đất cũng là Đấng dựng nên vũ trụ bao la nầy. Trong không gian, vận tốc ánh sáng là 300.000 cây số một giây. Dù với vận tốc nhanh kinh khủng như thế ánh sáng cũng phải mất 8 phút để đi từ mặt trời đến trái đất, với khoảng cách là 153 triệu cây số. Một điều kỳ diệu là khoảng cách giữa mặt trời và quả đất là một khoảng cách vừa đúng để sinh vật sống còn. Nếu quá gần mặt trời chúng ta sẽ bị cháy tiêu, nếu quá xa chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh. Ngẫu nhiên chăng? –Không phải đâu! Chính Đấng Tạo Hóa đặt để như thế.

 

Hiện tại chúng ta vẫn chưa biết giới hạn vũ trụ là bao nhiêu. Với những viễn vọng kính tối tân nhất, chúng ta chỉ mới thấy được những ngôi sao cách chúng ta khoảng 20 tỉ năm ánh sáng mà thôi! Tuy nhiên đó vẫn chưa phải là giới hạn của vũ trụ! Cho nên sự xuất hiện của con người trên địa cầu nhỏ bé duy nhất nầy giữa biển vũ trụ mênh mông gồm hàng trăm tỉ ngôi sao quả là một trong những điều mầu nhiệm vĩ đại trên đời mà các khoa học gia đến giờ nầy chưa giải thích nổi.

 

Đa-vít, một vị vua nổi tiếng của Do-thái xưa kia đã thốt lên như sau khi nhìn vũ trụ bao la, “Khi tôi nhìn bầu trời là công việc của tay Ngài, mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã tạo nên, thì con người là gì mà Chúa lưu ý, con cái loài người là ai mà Ngài chăm sóc?”4 Một Thượng Đế cao cả vĩ đại, Đấng đã tạo dựng thế giới và vũ trụ bao la, lại chăm sóc đến một loài người nhỏ bé như chúng ta, điều đó cho thấy tình yêu thật sự vô hạn của Ngài.

 

  1. Con người sống trên đời nầy để làm gì? Chưa ai rõ con người hiện diện trên quả đất bao lâu, nhưng kể từ khi nhân loại có lịch sử ghi lại bằng chữ viết (khoảng 5.000 năm nay) thì trong hơn 90% thời gian ấy, nghĩa là hơn 4.500 năm, con người luôn luôn chém giết nhau qua chiến tranh, giặc giã. Nghĩa là thời gian con người sống trong chiến tranh, chết chóc, nhiều hơn thời gian hòa bình. Hằng ngày chúng ta đọc báo chí thấy những cảnh giết người, khủng bố, thiên tai khắp nơi khiến cho đời sống con người đã ngắn lại càng ngắn thêm. Rồi bạn nhìn những người xung quanh bạn bon chen chạy theo vật chất, tranh dành địa vị, quyền lợi đến nỗi làm hại nhau. Bạn tự hỏi: Ý nghĩa cuộc đời là như thế à? Tại sao con người không thể đối xử tốt hay sống hoà thuận với nhau được?

 

Lời Thượng Đế dạy trong Thánh Kinh: “Hãy làm điều công chính và phải lẽ.”Thượng Đế đặt con người trên đất để thờ kính và phục vụ Ngài, không phải để chém giết nhau hay làm hại nhau. Ngài muốn con người cải tiến quả địa cầu mà Ngài đã tạo nên. Một lần nữa Thánh Kinh dạy thêm, “Hãy thực thi công bình cho kẻ cô thế và mồ côi; bảo vệ quyền lợi của người thấp kém và khốn cùng.”6 Đó là ý nghĩa cuộc đời. Đó là lý do để chúng ta sống trên đất nầy.

 

Một điều ít ai chối cãi: Cuộc đời nầy thật quá ngắn ngủi so với cõi vô tận! Mô-se, một vị lãnh đạo vĩ đại xưa kia của dân Do-thái viết, “Các năm tháng chúng tôi kết thúc trong tiếng khóc than. Đời chúng tôi dài lắm là 70 tuổi, còn nếu khỏe mạnh thì được 80, nhưng các năm tháng ấy đều đầy lao khổ.”Văn chương Việt Nam cũng đã cho thấy cảnh bấp bênh của đời sống qua câu ca dao,

“Đời người ví thể phù du,

Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.”

Cho nên ý nghĩa đời bạn là gì? Bạn đã tìm thấy nó chưa?

 

  1. Sau khi qua đời, con người sẽ đi đâu? Hằng ngày chúng ta quá bận rộn với cuộc sống nên ít có thì giờ để nghĩ đến cái chết và quên rằng mỗi một ngày qua đi đưa chúng ta gần đến điểm cuối của cuộc đời mình! Chỉ khi nào chứng kiến cảnh vĩnh biệt đau buồn của bạn hữu hay thân nhân thì chúng ta mới sực tỉnh và tự hỏi: Chúng ta qua đời rồi sẽ đi đâu nhỉ? Rồi bạn băn khoăn: “Chừng nào thì tôi sẽ gặp lại những người thân đã ra đi?”

 

Nhiều người cho rằng, “Chết là hết.” Tại sao?

 

—Vì rằng từ ngày có vũ trụ nầy, hàng bao nhiêu tỉ người đã sinh ra, sống tạm trên đất, rồi qua đời. Không một ai trở về bảo cho chúng ta biết bên kia phần mộ có gì. Tuy nhiên Thánh Kinh cho chúng ta thấy rõ những gì xảy ra sau cái chết: “Theo như đã định, mọi người phải chết một lần rồi chịu xét xử.”9 Thánh Kinh mô tả thêm, “Tất cả chúng ta đều phải trình diện trước Chúa Cứu Thế để chịu xét xử. Mỗi người sẽ nhận lãnh điều mình đáng lãnh do những việc mình đã làm trong thân xác, dù tốt hay xấu cũng vậy.”10 Một chỗ khác Thánh Kinh cho biết, “Thượng Đế sẽ phân xử mọi việc, cho đến việc làm lén lút, dù thiện hay ác cũng vậy.”11 Đó là những gì sẽ xảy ra sau khi chúng ta qua đời. Thánh Kinh viết thêm về số phận những người bị trừng phạt sau khi ra trước toà án của Thượng Đế, “Những kẻ hèn nhát, kẻ vô tín, kẻ làm ác, kẻ giết người, kẻ dâm dục, kẻ phù phép, kẻ thờ thần tượng và các kẻ nói dối thì chỗ ở của chúng là hồ lửa diêm sinh. Đó là cái chết thứ hai.”13 Như thế chết chưa phải là hết mà là phải ra trước toà án của Thượng Đế. Đồng thời chúng ta thấy có 2 cái chết: một về phần xác, và một về phần hồn nghĩa là chịu khốn khổ trong hỏa ngục. Cái chết phần xác là cái chết tạm, cái chết phần hồn là cái chết vĩnh viễn.

 

Sứ đồ Giăng cũng mô tả như sau về thiên đàng, nơi những người thuộc về Chúa tức những người không bị xét xử, sẽ sống, “Rồi tôi thấy trời mới, đất mới. Tôi cũng thấy thành thánh là Giê-ru-sa-lem mới từ thiên đàng của Thượng Đế xuống…Ngài sẽ lau hết nước mắt khỏi mắt họ; sẽ không còn chết chóc, buồn thảm, khóc lóc hay đau đớn nữa vì những việc cũ đã qua rồi. Thành cũng không cần mặt trời, mặt trăng chiếu sáng vì vinh hiển của Thượng Đế là ánh sáng cho thành và Chiên Con (Chúa Giê-xu) là đèn của thành.… Các cổng thành không bao giờ đóng vì không có đêm ở đó nữa.”14 Đó là hình ảnh của thiên đàng, nơi Chúa và các con cái của Ngài sẽ cư ngụ. Như thế cuộc sống trên trần thế nầy là cuộc sống tạm, cuộc sống đời sau mới là cuộc sống vĩnh viễn.

 

Bạn có nhận thấy rằng hầu hết các tôn giáo trên thế giới đều tìm hiểu về thế giới bên kia không? Tại sao?—Vì đa số con người bình thường đều tin rằng sau cái chết còn một cái gì khác nữa. Tuy nhiên không tôn giáo nào trình bày rõ ràng về các sự việc bên kia phần mộ bằng Thánh Kinh, lời của Thượng Đế, như bạn đã thấy trên đây.

 

* * *

 

Bạn thân mến, nếu trên đây là 3 câu hỏi lớn lao trong đời bạn thì giờ đây bạn đã biết câu trả lời, qua Thánh Kinh. Tất cả chúng ta đều có nhiều lựa chọn khi còn sống. Tuy nhiên có hai điều chúng ta không thể chọn: ngày sinh  ngày chết của chúng ta.

 

Nếu chúng ta đã chuẩn bị rất nhiều cho cuộc sống tạm bợ trên đất nầy, chẳng lẽ chúng ta lại không chuẩn bị kỹ hơn cho ngày chúng ta lìa đời sao? Tôi tin rằng bạn rất muốn chuẩn bị.

 

Chuẩn bị cách nào? Một lần nữa Thánh Kinh vạch con đường cho chúng ta thấy, “Hiện nay không có sự xét xử nào cho những ai ở trong Cứu Chúa Giê-xu.”15 Nghĩa là những ai ở trong Cứu Chúa Giê-xu đều không phải chịu xét xử sau khi qua đời. Ai được ở trong Cứu Chúa Giê-xu? –Đó là những người đã đặt niềm tin nơi Ngài. Thánh Kinh viết, “Vì Thượng Đế quá yêu nhân loại đến nỗi đã hi sinh Con Một của Ngài (tức Chúa Giê-xu), để hễ ai đặt niềm tin vào Con ấy sẽ không bị chết mất nhưng được sự sống đời đời.”16 Chúa Giê-xu hi sinh cách nào?—Ngài hi sinh bằng cách chịu chết trên thập tự giá thay cho bạn và tôi.

 

Cho nên nếu bạn cũng như tôi là những người đang vấn vương bởi 3 câu hỏi quan trọng vừa nói, và mong muốn tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời mình trên đất nầy để có được một sự an toàn trong đời tương lai thì bạn hãy đặt niềm tin mình nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu hôm nay. Đừng chậm trễ. Ngài đang trông chờ bạn. Bạn có thể trực tiếp đến với Ngài bằng lời cầu nguyện chân thành và vắn tắt:

 

Lạy Chúa Cứu Thế Giê-xu, con muốn được sự sống đời đời trong Ngài. Con xin đặt niềm tin nơi sự hi sinh cao cả của Ngài trên thập tự giá. Con muốn sống một cuộc đời có ý nghĩa. Xin tiếp nhận con làm con của Ngài để con được vào nước thiên đàng của Ngài. Nhân danh Cứu Chúa Giê-xu, A-men.”