Cơ Đốc Giáo Dục Trong Gia Đình

Cơ Đốc Giáo Dục Trong Gia Đình

Trong tập sách nhỏ về giáo dục gia đình của Bộ Phát triển Cộng đồng và Thể thao (Ministry of Community Development and Sports) của Singapore phát hành có tựa đề “Family Values” (Những giá trị gia đình), tác giả đã nêu ra năm giá trị cốt lõi của gia đình mà chính phủ Singapore muốn công dân nước họ phải hướng đến, đó là: Tình yêu, sự chăm sóc và  quan tâm (Love, Care and Concerns) Tôn trọng nhau, (Mutual Respect) Trách nhiệm hiếu kính, (Filial Responsibility) Sự cam kết (Commitment) và Truyền thông (Communication). Khi đọc tập sách này, tôi liên tưởng đến những giá trị mà Cơ Đốc nhân phải giáo dục cho con em trong gia đình và tự hỏi Cơ Đốc nhân phải giáo dục những giá trị cốt lõi nào cho con cái trong gia đình?

 

 

 

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà đạo đức con người trong xã hội bị băng hoại, dường như mọi giá trị đều bị đảo lộn, nhất là những giá trị đạo đức tốt đẹp bao đời về hôn nhân, gia đình đã bị phá đổ, sói mòn. Ngay cả những gia đình Cơ Đốc cũng có nguy cơ mất đi dần những giá trị đạo đức, tin kính nền tảng, cốt lõi vốn có bao đời nay. Vì thế Hội Thánh và những người lãnh đạo có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể cho con dân Chúa về vấn đề Cơ Đốc giáo dục trong gia đình.

 

CƠ ĐỐC GIÁO DỤC PHẢI BẮT ĐẦU TỪ TRONG GIA  ĐÌNH

Điều đáng lưu ý là Luật pháp Môi-se rất chú trọng về giáo dục trong gia đình. Điều này cũng dễ hiểu vì nếu gia đình là nền tảng của xã hội thì gia đình cũng là đơn vị nền tảng của cộng đồng con dân Chúa. Chúng ta hãy đọc những lời trong Phục truyền 6:4-9. Người Do Thái gọi phân đoạn Kinh Thánh này là Shê-ma (Nt: Nghe) . Shê-ma là bản tuyên xưng đức tin của người Do Thái và các con em của họ phải được dạy dỗ như vậy từ nhỏ. Phân đoạn Kinh Thánh này chỉ cho chúng ta phương pháp và nội dung của Cơ Đốc giáo dục trong gia đình. Động từ ‘dạy” [SHA-NAN] trong câu 7 là động từ rất khó dịch vì nó có ý rất sâu sắc. Bản NIV dịch là “impress” nghĩa là gây ấn tượng, khắc sâu trong tâm trí. Các cụ của chúng ta trong Bản 1926 đã dựa vào bản Hoa ngữ là “ân cần giáo huấn” để dịch sang tiếng Việt “ân cần dạy dỗ” là rất đạt vì đã lột tả được ý nghĩa của động từ “sha-an” trong nguyên tác.

 

Dạy làm sao để gây ấn tượng sâu sắc, để khắc sâu trong tâm khảm người học là một việc không dễ dàng chút nào. Triết lý của Kinh Thánh trong việc giáo dục là dạy bằng gương mẫu, nghĩa là không phải chỉ dạy bằng lý thuyết, chữ nghĩa mà còn bằng gương mẫu qua hành động nữa. Đó là lối giáo dục lý tưởng nhất, hiệu quả nhất nhưng cũng nhiều thách thức nhất. Muốn được thế, Kinh Thánh bảo trong câu 6 rằng “Các lời mà ta đã truyền cho các ngươi phải ở tại trong lòng các ngươi.” Nghĩa là cha mẹ hay người dạy phải học hỏi và kinh nghiệm “ở trong lòng” trước rồi mới có thể “ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái các ngươi” được. Nếu cha mẹ hay người dạy mà không thực hành để thấm nhuần lời Chúa “ở trong lòng” thì cũng khó mà dạy dỗ con cái thành công. Và để hỗ trợ cho việc giáo dục trong gia đình được hiệu quả, Kinh Thánh cũng dạy chúng ta phải tạo một môi trường giáo dục tốt để giúp con em khắc sâu kiến thức như phải nhắc đến trong sinh hoạt hằng ngày trong gia đình hay ngoài xã hội và phải tìm cách để ghi nhớ như trong câu 8-9 “Hãy buộc những lời ấy vào tay làm dấu, đeo lên trán làm hiệu, và viết các lời đó trên khung cửa nhà và trước cổng.” (TTHĐ). Thiết tưởng đó là lối giáo dục hiệu quả nhất mà chúng ta phải nhờ ơn Chúa áp dụng. Chính Chúa Giê-xu đã áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài rửa chân cho các môn đồ được ghi lại trong Giăng 13. Có lẽ các môn đệ của Ngài sẽ không bao giờ quên bài học mà Chúa đã “ân cần dạy dỗ” một cách đầy ấn tượng này.

 

Cơ Đốc giáo dục trong gia đình vì thế đặc biệt quan trọng. Một thống kê ở Mỹ cho thấy một đứa trẻ từ nhỏ cho đến hết bậc  trung học thì chỉ 1% thời gian là ở nhà thờ, 16% là học đường và 83% là ở gia đình. Như thế, không còn nghi ngờ gì nữa, gia đình phải chịu trách nhiệm chính về việc giáo dục con em chứ không là nhà thờ hay nhà trường.

 

BẢY GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA GIA ĐÌNH CƠ ĐỐC

Có nhiều điều quan trọng và cơ bản mà chúng ta phải dạy cho con em trong gia đình. Đó là những giá trị tốt đẹp mà chúng ta phải gìn giữ và phát huy. Giá trị là những gì chúng ta coi là quan trọng trong đời sống con người, là niềm tin và thái độ ảnh hưởng đến cách chúng ta suy nghĩ và hành động. Đời sống gia đình luôn thay đổi theo thời gian cùng với sự phát triển, đổi thay của xã hội và do đó những giá trị của nó cũng có thể bị thay đổi. Tuy nhiên, là con dân Chúa sống theo tiêu chuẩn Nước Trời, chúng ta phải quan tâm, chăm sóc và gìn giữ những giá trị cốt lõi của gia đình Cơ Đốc theo Kinh Thánh dạy. Thiết nghĩ ít ra có bảy giá trị cốt lỗi, nền tảng của gia đình Cơ Đốc mà chúng ta phải dạy cho con em chúng ta. Tôi xin trình bày tóm gọn như sau:

 

1. Kính yêu Chúa

Giá trị cốt lõi đầu tiên mà chúng ta phải dạy cho con em là nhận biết có một Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất mà mọi người phải kính mến, thờ phượng Ngài. Đây cũng là điều đầu tiên mà Shê-ma của người Do Thái đã dạy “Hỡi Y-sơ-ra-ên hãy nghe! Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là Giê-hô-va có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời người.” Điều này đặc biệt quan trọng đối với dân Y-sơ-ra-ên khi họ đang sống trong xứ Ca-na-an là một thế giới đa thần, thờ nhiều thần như Ba-anh, Phê-ô và nhiều thần khác nữa. Ngày nay cũng vậy, trong khi nhiều người chung quanh chúng ta chủ trương đa thần hoặc vô thần, thì Cơ Đốc nhân nhờ sự mặc khải của Chúa qua Kinh Thánh, chỉ tin và thờ phượng một Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất mà thôi như Điều răn thứ Nhất Chúa dạy “Trước mặt ta ngươi chớ có các thần nào khác.” Đây là di sản đức tin quý báu mà mọi gia đình Cơ Đốc phải gìn giữ, lưu truyền và phát huy.

 

Gắn liền với đi điều đó là Lời Chúa vì Chúa là Lời Chúa là một; yêu mến Chúa thì không thể không yêu mến Lời Chúa. Để có thể giữ lòng kính yêu Chúa, con dân Chúa phải yêu mến Lời Chúa, nghiên cứu và học hỏi lời Chúa mỗi ngày và lập đức tin vững vàng trên lời đó. Chúng ta không thể hết lòng, hết ý, hết sức, mà yêu mến Chúa nếu chúng ta không yêu mến và nuôi mình bằng Lời Chúa mỗi ngày.  Đức Chúa Trời hứa ban phước dư dật cho gia đình nào kính sợ Đức Giê-hô và đi theo đường lối Ngài. (Thi Thiên 128)

 

2. Phục vụ Chúa

Đi đôi với lòng kính mến Chúa là sự phục vụ Chúa. Một người kính mến Chúa không thể không phục vụ Ngài được. Một gia đình tin kính Chúa, yêu mến Chúa phải nói như Giô-suê rằng “Ta và nhà ta (gia đình ta) phục sự Đức Giê-hô-va.” (Giô-suê 24:15b) Ở ngoài xã hội, ở học đường người ta chỉ dạy về sự phục vụ tha nhân, phục vụ xã hội, đất nước nhưng không dạy về sự phục vụ Chúa vì họ không biết Chúa. Nhưng chúng ta là con dân Chúa phải dạy cho con em trong gia đình biết phục vụ Chúa, dâng hiến cho Chúa, rao truyền danh Chúa và sống cho Chúa nữa. Phục vụ Chúa phải là một trong những mục đích của đời sống Cơ Đốc nhân.

 

3.  Yêu thương, quan tâm, chăm sóc lẫn nhau

Yêu mến Chúa không thể tách rời với việc “yêu thương người lận cận như mình”(Lê-vi 19:18) vì thế, Chúa Giê-xu đã tóm tắt luật pháp của Chúa bằng cách gắn kết hai ý tưởng “kính mến Chúa” và “yêu người lân cận” lại với nhau (Mat 22:37-40). Thật vậy mối quan hệ của chúng ta với Chúa phải được thể hiện trong mối quan hệ của chúng ta với nhau, nhất là những người cùng sống trong một mái gia đình. Vì thế, chúng ta cần phải dạy con em biết yêu thương, quan tâm, chăm sóc những người thân trong gia đình. Người lận cận gần gũi nhất là những người trong gia đình mình. Không thể là Cơ Đốc nhân thứ thiệt nếu những người trong gia đình không cảm nhận được sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc nhau của người ấy. Phải tạo ra trong gia đình không khí yêu thương đầm ấm, hòa thuận nhau trong gia đình. Tình yêu Cơ Đốc trước hết phải thể hiện trong gia đình, nhiên hậu mới lan tỏa ra ngoài cộng đồng, xã hội. Đó là lý do thánh Giăng nói một cách mạnh mẽ “…vì kẻ nào chẳng yêu anh em mình thấy thì không thể yêu Đức Chúa Trời mình không thấy được.”(I Giăng 4:20b)

 

4. Tôn trọng nhau

Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và bình đẳng trước mặt Ngài, vì thế mọi người phải tôn trọng nhau. Có khi chúng ta tôn trọng người ngoài mà lại không tôn trọng nhau trong gia đình. Phải học chấp nhận nhau, giải hòa nhau trong gia đình dù có những ý kiến bất đồng. Một người cảm thấy được tôn trọng trong gia đình sẽ biết tôn trọng người khác ngoài xã hội. Phải giữ sự tôn trọng nhau, không làm tổn thương nhau trong mối quan hệ giữa vợ với chồng, cha mẹ và con cái và anh chị em với nhau như Kinh Thánh dạy “Phải khiêm nhường, coi người khác như tôn trọng hơn mình” (Phi-líp 2:3) “Hãy lấy lẽ kính nhường nhau”(Rô-ma 12:10)

 

5. Bổn phận hiếu kính

Cơ Đốc giáo coi trọng chữ hiếu và xem đó là điều răn thứ nhất trong bổn phận đối với con người (Eph 6:1-2) Văn hóa, luân lý truyền thống coi trọng sự cúng giỗ để bày tỏ lòng hiếu nhưng Cơ Đốc giáo thì coi trọng mối quan hệ yêu thương, kính trọng để bày tỏ chữ hiếu. Phải dạy con em trong gia đình Cơ Đốc biết hiếu kính với ông bà, cha mẹ vì điều đó đẹp lòng Đức Chúa Trời  Kinh Thánh dạy “Nhưng nếu bà góa có con hoặc cháu, thì con cháu trước phải học làm điều thảo đối với nhà riêng mình và báo đáp cha mẹ; vì điều đó đẹp lòng Đức Chúa Trời.” (1Tim 5:4). Cơ Đốc nhân tin kính phải là người hiếu kính trong gia đình.

 

6. Bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình

Cơ Đốc nhân phải có tinh thần trách nhiệm trước hết là đối với gia đình. Phải dạy cho con em ý thức trách nhiệm của mỗi thành viên đối với gia đình, phải sẵn sàng hỗ trợ, cứu giúp nhau, hy sinh cho nhau trong gia đình gặp thử thách, hoạn nạn, ốm đau, Một Cơ Đốc nhân thật không thể vô trách nhiệm đối với gia đình mình. Kinh Thánh dạy “phải mang lấy gánh nặng cho nhau” (Gal 6:2) thì thiết nghĩ điều này trước hết phải được bày tỏ trong gia đình “…Và anh em sanh ra để giúp đỡ trong lúc hoạn nạn.” (Châm ngôn 17:17b)

 

7.  Hiểu biết nhau, cảm thông nhau

Sự truyền thông, giao tiếp giữa những thành viên trong gia đình rất quan trọng để giúp cho mối quan hệ trong gia đình tốt đẹp. Phải dạy cho các thành viên trong gia đình biết cảm thông nhau, hiểu nhau trong mối quan hệ vợ với chồng, cha mẹ với con cái và anh chị em với nhau. Những xung đột trong gia đình xảy ra thường thường là do truyền thông, giao tiếp  chưa tốt. Nếu người xưa biết dạy con cái trong gia đình phải “học ăn, học nói, học gói, học mở”, phải biết “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” thì Cơ Đốc nhân hơn ai hết phải cẩn thận trong cách nói năng, cư xử với nhau để không làm tổn thương, nhau như Kinh Thánh dạy “Chớ có một lời dữ nào ra từ miệng anh em; nhưng khi đáng nói hãy nói một vài lời lành giúp ơn cho và có ích lợi cho kẻ nghe đến.” (Ê-phê-sô 4:29)

 

KẾT LUẬN

Có thể nói Cơ Đốc giáo là một tôn giáo có tính giáo dục cao nhất và tính giáo dục đó trước hết phải được thể hiện trong gia đình. Đạo Chúa coi trọng giáo dục gia đình và Đức Chúa Trời giao trách nhiệm dạy đạo trong gia đình cho các bậc phục huynh. Đạo đức, nhân cách Cơ Đốc của con em chúng ta cơ bản được hình thành từ lúc nhỏ trong gia đình. Vì thế nếu chúng ta quan tâm giáo dục con cái theo đường lối của Chúa thì chắc chắn con em chúng ta sẽ trở nên những người tin kính và gia đình chúng ta sẽ là những gia đình tin kính, làm vinh hiển danh Chúa. “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo, dầu chi khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó.” (Châm 22:6). Tóm lại:

 

Dạy con kính Chúa, yêu người

Nhờ Lời hằng sống dưỡng nuôi mỗi ngày.

Yêu thương, tôn trọng lẫn nhau

Cảm thông, hiếu thảo làm câu trau mình.

Cơ Đốc Nhân Và Vấn Đề Ma Thuật

Cơ Đốc Nhân Và Vấn Đề Ma Thuật

 

 

 

I Sa-mu-ên 28:1-25

 

 

Lời mở đầu.

 

Sau khi Sa-tan phản loạn Đức Chúa Trời trong thế giới vô hình, Đức Chúa Trời đã trục xuất nó xuống chốn không trung. Từ đó Sa-tan trở thành kẻ đối nghịch với Đức Chúa Trời, chống phá Hội thánh và tôi con Chúa. Hiện nay Sa-tan là “vua cầm quyền chốn trung” và cũng là “vua chúa của thế gian mờ tối nầy” (Ê-phê-sô 2:2, 6:12). Sa-tan đã bành trướng thế lực tối tăm và tội ác của nó ra trên thế gian cách mạnh mẽ và đã bắt lấy vô số linh hồn người ta thờ lạy, làm nô lệ cho nó. Trong những ngày cuối cùng của thời kỳ ân điển khi Chúa Giêxu Christ gần tái lâm, Sa-tan và bè lũ qủy sứ của nó càng hoạt động mạnh mẽ hơn, vì nó “biết thì giờ của nó chẳng còn bao nhiêu” (Khải 12:12) .

 

Cách thức Sa-tan hoạt động và bành trướng quyền lực nó trên thế gian hầu hết là qua môi giới con người, như  I Sa-mu-ên 28:1-25 chép về hoạt động của bà bóng ở Ên-đô-rơ và qua các phù thủy, đồng cốt. Câu chuyện Vua Sau-lơ cầu bà bóng ở  Ên-đô-rơ là  một câu  chuyện  gây  nhiều tranh luận. Chúng ta cần nghiên cứu để hiểu rõ ý nghĩa đúng của lời Chúa trong phân đoạn Thánh kinh nầy; đồng thời cũng thấy được sự trá hình của Sa-tan tinh vi đến mức độ nào, hầu có thể giữ mình và giúp nhiều người thoát khỏi sự mê hoặc của nó.

I. BỐI CẢNH CHUYỆN SAU-LƠ CẦU BÀ BÓNG.

 

Có hai vấn đề cần bàn đến trong phần nầy:

1. Bối cảnh quốc gia I-sơ-ra-ên thời vua Sau-lơ.

Sau hơn 300 năm (1400–1100TC – Quan 11:26), dân I-sơ-ra-ên sống dưới thời các quan xét, “mỗi người đều làm theo ý mình lấy làm phải”. Chúa thương xót dấy lên một người vừa làm Quan xét và vừa là nhà Tiên kiến rất quyền năng, đầy ơn có tài trong lãnh vực lãnh đạo dân sự, đã sáng lập ra nền Quân chủ cho vương quốc I-sơ-ra-ên, người đó chính là Sa-mu-ên. Trải hằng ngàn năm, tuyển dân Chúa sống dưới chính thể thần minh, họ được Đức Chúa Trời trực tiếp cai trị qua các tiên tri, thầy tế lễ. Nhưng đến gần cuối đời tiên tri Sa-mu-ên, dân I-sơ-ra-ên cương quyết đòi cho có một vị vua cai trị họ giống như các dân tộc chung quanh! Lý do dân I-sơ-ra-ên đòi hỏi như vậy là vì:

 

– Sa-mu-ên đã già mà các con trai ông không xứng đáng lãnh đạo họ (I Sam 8:1-3,5).

– Họ thấy các dân chung quanh đều có vua. Nên cũng đua đòi cho có một vua cai trị họ! (I Sam 8:5).

Mặc dầu Sa-mu-ên hết sức giải thích cho dân sự hiểu sự đòi hỏi của họ sẽ đem lại hậu quả tai hại về sau và nó cũng làm cho Đức Chúa Trời buồn lòng nữa. Nhưng dân I-sơ-ra-ên cương quyết đòi hỏi nên Chúa an ủi Sa-mu-ên và bảo đầy tớ Ngài cứ làm theo ý họ muốn! Thế là Sa-mu-ên theo sự hướng dẫn của Chúa đi xức dầu cho Sau-lơ làm Đệ nhứt Quân vương cho Vương quốc I-sơ-ra-ên (I Sam 10:1).

 

2. Chân dung đệ nhứt Quân vương Sau-lơ.

Sau lơ là con trai của Kích, thuộc chi phái Bên-gia-min. Một người có thân hình cao lớn hơn cả mọi người (I Sam 10:22). Khi còn là một thanh niên trong gia đình, Sau-lơ rất khiêm nhường, nhịn nhục và biết vâng lời (I Sam 9:21,10:24). Rất có ý thức trách nhiệm và cũng có lòng bao dung (I Sam 10:27). Nhưng sau khi được xức dầu làm vua I-sơ-ra-ên, và nhứt là khi đã lên ngôi cai trị vương quốc I-sơ-ra-ên rồi thì lòng ông đổi khác mà trở nên kiêu căng, cứng cỏi, ngang ngạnh và bất nhân. Nhiều lần ông phạm tội được Chúa cảnh cáo nhưng không chịu ăn năn, cứ đi theo ý riêng nên Chúa Thánh Linh lìa bỏ và ác thần nhập vào khuấy khỏa ông (I Sam 16:14). Từ đó Sau-lơ gây nên bao cảnh đau thương cho Đa-vít và dân sự Chúa, mãi đến ngày Sau-lơ chết mới hết. Trước khi Sau-lơ chết, Chúa đã lìa bỏ ông và để ông đi đến chỗ cùng đường túng thế; ông bị quân Phi-li-tin tấn công, trong khi đó đầy tớ Chúa là tiên tri Sa-mu-ên đã qua đời không còn ai cầu hỏi ý Chúa giúp ông. Một người có thể giúp vua được là Đa-vít, nhưng vì tánh ganh tị nên Sau-lơ xem Đa-vít như kẻ thù và nhiều lần vua tìm cách giết Đa-vít. Do đó nhà vua không còn có lối thoát nào khác hơn là liều lĩnh đi cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ, mà chính vua đã ra lệnh trừ diệt, để rồi phạm tội trọng trước mặt Chúa và phải nhận lấy kết cuộc bi thảm.

 

II. Ý NGHĨA CỦA CÂU CHUYỆN.

 

1. Ý nghĩa từ ngữ.

Trong phân đoạn Thánh kinh nầy có những từ chúng ta cần nghiên cứu.

 

– Cầu vong: (I Sam 28:7,8), là việc làm của những phù thủy dùng phép thuật để gọi hồn người chết về cho những người thân yêu gặp gỡ cầu  hỏi hay trò chuyện. Thực ra không có hồn người chết nào có thể trở về được, đó chỉ là sự trá hình và giả hiệu của ma qủy thôi.

 

– Đồng cốt: (I Sam 28:3,9). Các phù thủy thường dùng một người làm cốt để gọi hồn người chết về nhập vào người làm cốt nói ra một số điều. Thực sự cũng chẳng có người chết nào trở về nhập vào người làm cốt ngoài ra ma qủy!

 

– Tà thuật: (I Sam 28:9): Dùng phép thuật của ma qủy làm nhiều việc, kể cả các dấu dị phép lạ. Công việc nầy có liên quan đến các trò như ma thuật, qủy thuật, phù phép..

 

Thánh kinh Tân ước có dùng một số từ ngữ để mô tả công việc nầy của Sa-tan như sau:

 

(1)    Pharmakeús : nghĩa là kẻ tà thuật, phù phép (sorcerer), nó còn được dịch là “kẻ đầu độc” (Khải 21:8, Khải 22:15).

(2) Pheríerga : nghĩa là tà thuật, phép thuật, người làm những việc vô ích (Êsai 3:3,Công 19:19).

2. Dân Y-sơ-ra-ên với chuyện Sau-lơ cầu bà bóng.

 

Thánh kinh không nêu rõ thái độ của dân chúng và người đương thời đối với câu chuyện nầy. Nhưng xét về bối cảnh vẫn có một số người tin. Vì lúc bấy giờ có một số đông dân I-sơ-ra-ên bị ảnh hưởng bởi bái vật giáo của vùng Pales-tin mà Chúa đã cảnh cáo họ trước khi bước vào đất hứa (Phục 18:9-14), thế nhưng họ đã bị các dân xứ Ca-na-an cám dỗ nên làm theo những thói tục gớm ghiếc nầy. Hơn nữa tiên tri Sa-mu-ên đã qua đời nên không còn ai cầu vấn Đức Chúa Trời thay cho dân sự. Chính vua Sau-lơ cũng rơi vào tình trạng túng thế nên mới đi cầu bà bóng, mặc dầu chính vua là người ra lệnh trừ diệt những đồng cốt, tà thuật trong I-sơ-ra-ên (I Sam 28:3,9). Đáng buồn hơn là chính vua Sau-lơ lại tin vào điều đó. Tuy nhiên, vẫn còn một số đông người I-sơ-ra-ên khác trung thành với Chúa, giữ điều răn quyết không tin và không làm các công việc tà thuật. Thánh kinh cho biết thời vua A-háp, là thời kỳ đen tối nhứt của lịch sử Do Thái giáo vẫn còn 7.000 người trong dân sự không chịu thờ lạy Ba-anh và môi họ chưa hôn nó (I Vua 19:18). Dầu vậy, những gì xảy ra ở đây là một bài học, một lời cảnh cáo cho tôi con Chúa khi mất ánh sáng lời Chúa, không ở trong hiện diện Chúa, con người có thể rơi vào chỗ tối tăm tuyệt vọng, dễ bị Sa-tan dẫn dụ đi vào sự hư hỏng bại hoại.

3. Quan điểm của các nhà giải kinh.

 

Khi giải nghĩa đoạn Thánh kinh nầy, các nhà giải kinh có ba quan điểm:

 

(1) Quan điểm của những người tin câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ là thật, nghĩa là họ tin rằng Sa-mu-ên đã thật sự xuất hiện để nói chuyện với Sau-lơ theo sự cầu vong của bà bóng.

 

Trong phần chú thích và giải nghĩa sách I Sa-mu-ên đoạn 28 của một Tạp chí Cơ Đốc đã giải thích: “Đức Chúa Trời nghiêm cấm dân I-sơ-ra-ên liên hệ tới việc bói toán, thầy phù thủy, thầy pháp, kẻ cầu đồng cốt, kẻ thuật số, hoặc kẻ cầu vong” (Phục 18:9-14). “Những kẻ làm thầy pháp sẽ bị xử tử” (Xuất 22:18,19). Tuy nhiên, trong phần giải thích việc Sa-mu-ên xuất hiện thì lại giải thích: “Bà bóng không gọi Sa-mu-ên lên bằng thuật lừa đảo hay bởi quyền lực của Sa-tan; Đức Chúa Trời đem Sa-mu-ên trở lại để báo cho Sau-lơ những lời tiên đoán liên quan tới số phận người, một sứ điệp Sau-lơ đã biết”. Sau đó có lời khuyến cáo: “Đó không phải là cách biện minh cho nổ lực liên lạc với người chết hoặc thông công với các tà linh thuộc về quá khứ. Đức Chúa Trời chống cự mọi thói tục như vậy”

 

(2) Quan điểm thứ hai của những người dè dặt bảo rằng họ không tin mà cũng không phủ nhận, vì chưa xác định được sự thật của câu chuyện. Ông Henry H.Halley nhận định về câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng là một “bài tường thuật đơn sơ và thành thật dường như ngụ ý rằng thần linh của Sa-mu-ên thật đã hiện về. Tuy nhiên, người ta có ý kiến khác nhau, kẻ cho rằng sự hiện hồn đó là thật, kẻ cho là giả”. Thánh kinh Khảo học có lời chú giải về I Sa-mu-ên đoạn 28 như sau: “Có thể hiểu sự việc nầy bằng mấy cách khác nhau: (a) Thượng Đế cho phép linh của Sa-mu-ên hiện lên cho bà (bóng) thấy. (b) Người đàn bà tiếp xúc với thần dữ hay ác linh trong hình dạng Sa-mu-ên do đó bà bị gạt hoặc bị kiểm soát (c) Bằng cách dùng năng lực bán tâm lý như cảm từ xa hoặc khả năng thấy được cái vô hình”

 

(3) Quan điểm thứ ba của nhiều nhà giải kinh cho rằng câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ chỉ là trò lừa bịp, trá hình của Sa-tan để làm hại vua Sau-lơ, gia đình vua và nhiều con cái Chúa chưa hiểu được bản chất xảo quyệt của nó thôi! Trong quyển New Commentary có lời bình giải về câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng rất chính xác như sau: “Điều chắc chắn trong đoạn Thánh kinh nầy là Đức Chúa Trời không tán đồng những hoạt động của các đồng bóng. Sự hướng dẫn của Chúa không bao giờ bị lừa gạt bởi những hoạt động của chúng”.

4. Cách hiểu đúng câu chuyện .

 

Trước hết chúng ta tin rằng Chúa làm được tất cả mọi sự, nhưng Ngài không bao giờ làm điều gì mâu thuẫn với chính Ngài. Sự kiện Sa-mu-ên xuất hiện để nói chuyện với Sau-lơ là việc Đức Chúa Trời có thể làm được. Nhưng xét về ý nghĩa và nội dung câu chuyện, thì rất khó tin rằng Đức Chúa Trời cho phép tiên tri Sa-mu-ên xuất hiện theo sự cầu vong của bà bóng. Nếu như vậy té ra Đức Chúa Trời chấp nhận việc đồng cốt và tà thuật sao? Còn giải thích rằng Sa-mu-ên hiện lên là do quyền phép Đức Chúa Trời chứ không do bà bóng thì càng khó chấp nhận, nhứt là Sa-mu-ên xuất hiện trong thời điểm bà bóng cầu vong. Xin nhớ rằng bản chất thánh lành của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi. Hơn nữa không có ai đã qua đời mà còn có thể trở lại trần gian để phán dạy điều gì cho người sống. Điều nầy được xác minh qua thí dụ Chúa Giêxu kể trong Luca 16:19-31.

 

Trong Thánh kinh có ghi lại trường hợp Môi-se và Ê-li hiện ra với Chúa Giêxu trên núi hóa hình (Mat 17). Nhưng đây là trường hợp đặc biệt Chúa muốn mạc khải một vài chân lý có liên quan đến mô hình biến hóa hai hạng Cơ Đốc nhân trong ngày Chúa tái lâm, chứ không phải họ trở lại trần gian để nói điều gì liên quan đến sự cứu rỗi hay một sứ mạng gì đặc biệt. Do đó họ chỉ xuất hiện để gặp gỡ Chúa Giêxu mà không hề nói một lời nào với ba vị sứ đồ đang chứng kiến. Vì những gì cần thiết cho con người thì Chúa đã phán dạy qua Thánh kinh rồi!

 

Ngoài ra nếu phân tích văn mạch Thánh kinh thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn.

* Văn mạch trực tiếp:

I Sam 28:3 “Sau-lơ trừ diệt khỏi xứ những đồng cốt và những thầy bói” và câu 9 khẳng định lại một lần nữa.

 

* Văn mạch gián tiếp:

Lêv 19:31, “Các ngươi chớ cầu đồng cốt hay là thầy bói; chớ hỏi chúng nó, e vì chúng nó mà các ngươi phải bị ô uế: Ta Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi”.

Lêv 20:27 “Khi nào một người nam hay nữ làm đồng cốt hay là bói khoa, thì sẽ bị xử tử, người ta sẽ ném đá chúng nó: huyết chúng nó sẽ đổ lại trên mình chúng nó”. Có thể xem  thêm ở Phục 18:9-14 và Êsai 18:19.

 

* Văn mạch toàn diện:

Khải 21:8 “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép..”. Chữ phù phép ở đây có nghĩa là tà thuật.

Khải 22:15 “Những loài chó, những thuật sĩ.”. Chữ thuật sĩ (Phármakos) có nghĩa là kẻ tà thuật, kẻ đầu độc.

 

Ngoài ra cũng có thể xem thêm một số câu khác nữa như Khải 9:21,18:23, Công 8:8,9.. Trong  Gal 5:20 có nói đến “Những kẻ thờ hình tượng, phù phép”. Chữ phù phép trong nguyên văn là Mageúo có nghĩa là qủy thuật, tà thuật, là những điều mà cả Thánh kinh Cựu và Tân ước đều nghiêm cấm.

 

Như vậy, xét về văn mạch lẫn những gì mà lời Chúa mạc khải trong  Thánh  kinh, việc vua Sau-lơ cầu  bà bóng ở Ên-đô-rơ là một trò lừa đảo vô cùng tinh vi của Sa-tan, đúng như bản chất xảo trá quỷ quyệt và gian ác của nó. Sa-tan đã dùng tay bà bóng lừa phỉnh vua Sau-lơ, và nó đang tiếp tục lừa phỉnh vô số người trong nhân loại ngày nay qua các phù thủy, đồng cốt và tà thuật y như vậy, khiến nhiều người chết cả thể xác lẫn linh hồn hết sức đáng thương. IICôr 11:14 chép: “Nào có lạ gì, chính qủy Sa-tan mạo làm thiên sứ sáng láng”

 

Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời không tự chống lại chính mình Ngài, khi chỗ nầy thì nghiêm cấm còn chỗ kia lại cho phép! Nếu Chúa muốn phán với Sau-lơ thì không có gì khó cả, Ngài có thể mở miệng một người trong dân sự làm việc đó, thậm chí Chúa có thể dùng cả đến thú vật nữa, như Ngài đã từng mở miệng con lừa nói tiếng người với tiên tri Ba-la-am (Dân 22:28-33), nhưng vì Ngài đã lìa bỏ vua Sau-lơ nên Ngài im lặng.

 

Có người căn cứ vào nội dung cuộc đối thoại giữa nhân vật Sa-mu-ên với vua Sau-lơ mà tin rằng đó là chuyện thật. Nhưng xét kỹ không có gì khó hiểu ở đây. Phần lớn những điều nói đến trong cuộc đối thoại, Sa-mu-ên đã nói với vua Sau-lơ ngay trong lúc đầy tớ Chúa còn sống. Chỉ có một điều mới  là việc vua Sau-lơ và các con trai vua sẽ chết trong chiến trận, song về điều mới nầy cũng dễ hiểu thôi. Vì vua Sau-lơ đang nằm trong tay Sa-tan, nó muốn giết vua lúc nào chẳng được.

 

Một chuyện thật đã xảy ra cho một người lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam trong thời chiến tranh trước 1975. Người lính nầy có tên là Dwight, con của bà Reynolds ở tiểu bang Pensylvania. Từ khi Dwight tham chiến tại Việt Nam, anh thường xuyên viết thư cho mẹ. Nhưng bỗng dưng suốt nhiều tuần lễ bà không nhận được thư nào. Bà đâm ra bối rối và hết sức lo lắng. Một sáng kia, có chiếc xe của quân đội Hoa kỳ đứng trước cửa, họ trao cho bà bức điện để vừa thông báo mà cũng vừa phân ưu về việc con bà bị mất tích và có khả năng đã chết tại Việt Nam. Bà khóc òa và đau khổ vô cùng. Bà nói: ‘Chúa ơi tại sao con con chết? Con luôn cầu xin Chúa gìn giữ nó mà bây giờ nó đã chết là nghĩa làm sao?’

 

Ít ngày sau, có một người bạn đến nhà mời bà đi dự cuộc cầu hồn các lính Mỹ chết tại Việt Nam và người bạn đó hứa rằng bà có thể liên lạc với người chết được! Bà nhớ lời Chúa dạy trong sách Truyền đạo 9:5,6: “Kẻ sống biết mình sẽ chết, nhưng kẻ chết chẳng biết chi hết.. Sự yêu, sự ghét, sự ganh gổ của họ thảy đều tiêu mất từ lâu, họ chẳng hề có phần nào về mọi điều làm ra dưới mặt trời”. Vì cớ đó bà phản đối và từ chối không đi.

 

Một tuần lễ sau người bạn ấy trở lại và nói rằng hôm qua chúng tôi họp nhau và đã nói chuyện với những người thân chết trận tại Việt Nam. Con trai bà là Dwight có hiện về, nó trách tại sao bà không đến gặp nó, nó buồn tủi lắm. Từ đó bà cảm thấy thương nhớ con và ước ao được nói chuyện với con.

 

Tối thứ ba tuần sau, trong buổi cầu hồn để gặp những người chết, vì quá thương con, bà Reynolds cũng đến ngồi trên một chiếc ghế dài dành cho người muốn tiếp xúc với linh hồn người chết. Chung quanh bà có năm sáu người đàn bà cùng chờ để linh hiện về. Chốc lát sau, con của bà Reynolds hiện về thật. Rõ ràng là con của bà, hình ảnh của nó không thay đổi, giọng nói của nó cũng y như vậy. Bà vui mừng và nói chuyện với con gần một tiếng đồng hồ. Rồi mẹ con từ giả và hẹn tối thứ ba tuần sau. Ngày hôm sau bà đến gặp Mục sư và cho ông biết bà đã nói chuyện với đứa con trai đã chết của bà. Bà cho rằng Kinh thánh sai vì nói rằng người chết không hiện về được. Bà xin Mục sư cho bà rút tên ra khỏi Hội thánh.

 

Sáu tháng sau, vào một buổi sáng thứ sáu nọ, có tiếng chuông reo, bà mở cửa ra thấy con trai bà đang đứng trước cửa. Anh ta ôm chầm mẹ vui mừng cảm tạ Chúa. Bà ngạc nhiên hỏi sao con ở đây giờ nầy, chúng ta hẹn vào mỗi tối thứ ba như thường lệ cơ mà! Người con chẳng hiểu gì, anh ta chỉ nói với mẹ rằng con mới được phép về nhà. Lúc bấy giờ bà mới nhận ra con mình còn sống.

 

Phối kiểm lại bà mới biết rằng tin con bà chết là nhầm lẫn. Anh ta chỉ bị mất tích trong khi bị thương nặng, sau đó đồng đội đã tìm lại được và đưa vào bịnh viện dã chiến để chữa trị. Nên lâu ngày anh không viết thư cho mẹ được. Bấy giờ bà Reynolds biết mình đã mắc lừa ma qủy qua trò bịp cầu hồn của các đồng bóng, bà hết sức ăn năn với Chúa. Qua đó chúng ta nhận biết rằng các cuộc cầu hồn, đồng bóng, tà thuật v.v.. chính là các trò lừa bịp tài tình của Satan trong thế giới của các thầy pháp, các phù thủy thật là đáng sợ.

 

III. BÀI HỌC TỪ CÂU CHUYỆN SAU-LƠ CẦU BÀ BÓNG.

 

Từ câu chuyện nầy chúng ta rút ra được một số bài học như sau:

 

1. Khi con người không có lời Chúa soi sáng thì rất dễ bị Sa-tan dẫn dụ đi vào con đường tối tăm tội lỗi. Dầu cho người đó là ai, ở giai tầng nào, trình độ nào cũng có thể bị Sa-tan mê hoặc và dẫn dụ.

 

2. Sa-tan là kẻ giả hình rất tài tình, nó là cha của kẻ nói dối đã lừa hầu hết nhân loại bởi những trò ma thuật, phù phép và đồng bóng. Thậm chí nó còn lừa cả Cơ Đốc nhân nữa. Con cái Chúa phải hết sức đề cao cảnh giác và luôn sống trong ánh sáng lời Chúa để kịp thời phát hiện những trò lừa bịp của Sa-tan.

 

3. Hầu hết những người mà Sa-tan lừa phỉnh đều đi đến kết cuộc bi thảm. Sa-tan không có điều gì tốt lành và cũng chẳng bao giờ có lòng thương xót. Những người mắc lừa Sa-tan sẽ sớm kết thúc cuộc sống để đi đến chỗ đồng số phận với nó ở trong nơi khổ hình đời đời!

 

4. Cơ Đốc nhân phải tỉnh táo giữ mình, biết cách sử  dụng các loại khí giới của Đức  Chúa  Trời trong  Ê-phê-sô 6:11-18 để đánh trận thuộc linh. Cũng nhờ huyết và thập tự giá Chúa Giêxu chiến đấu chống trả ma qủy (Khải 12:11). “Hãy phục Đức Chúa Trời, hãy chống trả ma qủy thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia cơ 4:7).

Kết luận.

 

Nói về những hình thức hoạt động của Sa-tan ma qủy trong thế giới ngày nay thì không thể nào nói hết được. Nhưng xem ra sự trá hình và lừa phỉnh của Sa-tan ma qủy trong các cuộc đồng cốt, tà thuật và phù phép quả là một trong các hình thức lừa phỉnh hiệu quả nhất của nó hiện nay. Không chỉ con người trong các nước Đông phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi bái vật giáo nên sinh ra mê tín dị đoan, bói khoa tướng số, cầu cơ, lên đồng.. mà tại các nước Tây phương tiên tiến, sự hoạt động của Sa-tan trong lãnh vực nầy cũng không thua kém. Vì vậy, có thể nói hầu hết những người không Chúa đều đã bị Sa-tan lừa phỉnh bởi hình thức nầy. Cơ Đốc nhân cần nổ lực truyền bá Phúc Âm để mở mắt những người đã và đang mắc lừa ma qủy để sớm giải cứu đưa họ về cùng Chúa.

Đối Diện Tương Lai

Đối Diện Tương Lai

 

Chúng ta đang đứng trước ngưỡng cửa của năm mới 2014 và cũng sắp bước vào năm mới Âm lịch Giáp Ngọ. Chúng ta suy nghĩ gì khi đối diện với tương lai của năm mới? Bi quan hay lạc quan đây? Theo dự báo của các chuyên gia thì tình hình kinh tế thế giới năm 2014 có phần khởi sắc hơn, có triển vọng tăng trưởng tốt hơn, nhất là châu Âu vừa thoát khỏi khủng hoảng nợ công và đang trên đường phục hồi. Tuy nhiên về phương diện thiên tai, dịch bệnh thì người ta dự báo sẽ có nguy cơ khắc nghiệt và tệ hại hơn. Bằng chứng là đầu 2014 một đợt giá buốt quét qua Bắc Mỹ có nơi xuống -50 C, tệ hại nhất trong vòng 100 năm qua. Rồi dịch cúm gia cầm H5N1 đang lây lan ở Mỹ làm khá nhiều người chết, khiến nhiều người lo ngại. Rồi điều gì nữa sẽ xảy ra trong những tháng sắp tới, nào ai biết được!

 

 

Là Cơ Đốc nhân, chúng ta cần có thái độ như thế nào khi đối diện với tương lai? Kinh Thánh dạy chúng ta điều gì? Cảm ơn Chúa, trong Bài giảng trên núi, Chúa Giê-xu cũng dạy chúng ta về tương lai trong Ma-thi-ơ  6:31-34.

 

BẢN CHẤT TƯƠNG LAI

Trước hết Kinh Thánh cho chúng ta biết về bản chất của tương lai. Thánh Gia-cơ dạy “song ngày mai sẽ ra thế nào, anh em chẳng biết! Vì, sự sống của anh em là chi? Chẳng qua như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay.” (Gia-cơ 4:14).

 

Không ai biết chắc tương lai

Điều đầu tiên chúng ta cần biết về bản chất của tương lai là tính không biết chắc.

Châm Ngôn 27:1 cũng dạy “Chớ khoe khoang về ngày mai; Vì con chẳng biết ngày mai sẽ sinh ra điều gì.” Tại sao? Bởi vì cuộc đời là vô thường, vô định, không có gì là chắc chắn cả. Tôi nghĩ có lẽ tác giả bài hát nổi tiếng thế giới bằng tiếng Tây Ban Nha “Que sera sera – Whatever will be will be” thịnh hành trong những thập niên 50-60 của thế kỷ trước và cho đến ngày nay người ta vẫn còn thích hát, đã lấy cảm hứng từ Thánh Kinh khi viết bài hát này, trong đó có đoạn “Biết ra sao ngày sau, đời sẽ vui tươi hay buồn đau, vì sắc duyên là sóng bể dâu, nào ai biết ngày sau…”

 

Đời người mong manh

Sở dĩ tương lai không thể biết chắc cũng vì tương lai cuộc đời chúng ta tùy thuộc vào sinh mạng của chúng ta. Mà đời người lại quá ngắn ngủi, mong manh “như hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan ngay”. Tác giả Thi Thiên 103:15 cũng viết “Đời loài người như cây cỏ; Người sinh trưởng khác nào bông hoa nơi đồng; Gió thổi trên bông hoa, kìa nó chẳng còn, chỗ nó không còn nhìn biết nó nữa.”

 

Khi nói đến bản chất không biết chắc của tương lai, tôi nhớ lại câu chuyện về tàu Titanic bị chìm. Tàu Titanic hạ thủy tại Anh năm 1912 là chiếc tàu tối tân, hiện đại nhất thời bấy giờ với sức chứa gần 1.500 hành khách. Trước khi khởi hành đi từ Anh sang Mỹ, vị thuyền trưởng của chiếc tàu đã tuyên bố đầy ngạo mạn rằng chiếc này rất an toàn, không có gì có thể làm cho nó chìm được. Nhưng nào có ai ngờ trên đường vượt Đại Tây Dương, nó đã bất ngờ va vào một tảng băng lớn và bị chìm và hầu hết hành khách trên tàu phần lớn là những người giàu có, quyền quý, đã bị vùi sâu dưới lòng biển. Câu chuyện tàu Titanic bị chìm đã được ghi vào lịch sử nhân loại và ngày nay cũng được dựng thành phim như để nhắc nhở nhân loại đừng kiêu căng ngạo mạn về tương lai và sự khôn ngoan của mình.

 

THÁI ĐỘ CỦA CƠ ĐỐC NHÂN ĐỐI VỚI TƯƠNG LAI

 

Trong Bài giảng trên núi, khi dạy về sự lo lắng trong Ma-thi-ơ chương 6, Chúa Giê-xu đã dạy chúng ta ít ra ba điều liên quan đến thái độ đối tương lai.

 

Đừng lo lắng vì biết Chúa là Đấng nắm giữ tương lai

Chúa Giê-xu đã nhắc lại hai lần trong Ma-thi-ơ 6:31 và 34 rằng “đừng lo lắng.” Tại sao Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng về tương lai? Tất nhiên chúng ta cần phải suy nghĩ, tính toán, lên kế hoạch, lo liệu cho tương lai, nhưng Chúa dạy đừng lo lắng mà hãy cầu nguyện phó thác cho Ngài. Lý do chúng ta không nên lo lắng cho tương lai phải ăn gì uống gì mặc gì bởi vì tâm linh quý trọng hơn vật chất, sự sống quý trọng hơn quần áo. Con người chúng ta khác với các loài vật khác vì có linh hồn và được Đức Chúa Trời dựng nên theo hình ảnh của Ngài, vì thế chúng ta phải dành ưu tiên số một cho nhu cầu tâm linh. Hơn nữa, chúng ta cần ý thức rằng Chúa là Đấng nắm giữ tương lai cuộc đời chúng ta. Kinh Thánh dạy rằng trước khi hoạch định, làm công việc gì trong tương lai thì phải luôn tự nhủ “ví bằng Chúa muốn và nếu ta còn sống.” (Gia-cơ 4:15). Câu này hàm ý rằng Chúa là Đấng nắm giữ tương lai và Ngài nắm quyền tể trị mọi sự trên cuộc đời chúng ta.

 

Chúa không muốn chúng ta lo lắng vì lo lắng là phạm tội vô tín vì không tin cậy vào sự thành tín, yêu thương và quan phòng của Chúa. Chính vì thế mà R. H. Mounce nói một cách mạnh mẽ rằng “Lo lắng là thái độ vô thần thực hành và làm sỉ nhục Đức Chúa Trời”. Trái lại, Chúa bảo “Hãy trao mọi điều lo lắng mình cho Ngài vì Ngài hay săn sóc anh em.” (1 Phi-e-rơ 5:7).

 

Hãy bước đi bởi đức tin

Lo lắng cũng là thái độ thiếu đức tin, vì thế mà Chúa phán “Hỡi kẻ ít đức tin” (c.30).

Do đó, thay vì lo lắng về tương lai, Chúa muốn chúng ta là con dân Chúa hãy bước đi bởi đức tin. Kinh Thánh dạy “Chúng ta bước đi bởi đức tin chứ không phải bởi mắt thấy”.

(2 Cô-rinh-tô 5:7). Khuynh hướng tự nhiên của con người là bước đi theo điều mắt mình thấy, nhưng về phương diện tâm linh Chúa không muốn con dân Chúa bước đi bởi mắt thấy.

 

Thế nào là bước đi bởi đức tin? Bước đi bởi đức tin là nhìn xem Chúa mà bước đi chứ không nhìn hoàn cảnh chung quanh. Câu chuyện Phi-e-rơ đi bộ trên mặt biển trong Ma-thi-ơ chương 14 dạy chúng ta bài học cụ thể và sinh động về bước đi bởi đức tin. Sở dĩ Phi-e-rơ có thể đi trên mặt nước được vì ông nghe Chúa phán và ông nhìn xem Chúa mà bước đi. Nhưng khi Phi-e-rơ nhìn sóng gió và sợ hãi thì liền bị sụp xuống nước. Vì thế, tác giả thư Hê-bơ-rơ dạy chúng ta hãy “nhìn xem Đức Chúa Giê-xu là cội rễ và cuối cùng của đức tin…”

 

Bước đi bởi đức tin cũng có nghĩa là chúng ta tập trung vào hiện tại chứ không phải vào tương lai, vì đức tin là trong hiện tại. Cho nên trong bài cầu nguyện chung, Chúa dạy “Xin cho chúng con hôm nay đồ ăn đủ ngày.” Câu 34 Chúa muốn dạy chúng ta hãy hoàn tất bổn phận và trách nhiệm của chúng ta trong ngày hôm nay và sự khó nhọc cho hôm nay như vậy cũng đủ rồi. Xin Chúa giúp chúng ta nắm chắc lấy Lời Chúa và bước đi bởi đức tin trong năm mới này.

 

 Tìm kiếm vương quốc Đức Chúa Trời

Thái độ tích cực hơn khi đối diện với tương lai là “tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài.” Nên nhớ Chúa phán lời này không phải cho người chưa tin Chúa hay dân ngoại mà cho chúng ta là con dân Chúa. Câu Kinh Thánh rất quen thuộc với chúng ta, tuy nhiên tôi cảm thấy dường như chúng ta chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa, mầu nhiệm của chân lý này. Nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài có nghĩa gì? Tại sao con dân Chúa phải ưu tiên tìm kiếm hai điều ấy? Thiết tưởng chúng ta cần tìm hiểu cặn kẽ từng từ ngữ trong câu Kinh Thánh này.

 

Trước hết (Proton): Trạng từ này nhấn mạnh tầm quan trọng, thứ tự ưu tiên số một từ trong lòng.

 

Tìm kiếm: Các nhà nghiên cứu Kinh Thánh để ý thấy Chúa Giê-xu dùng hai động từ “tìm” khác nhau trong câu 32 và câu 33. Tìm (Epizeteo) trong câu 32 chỉ sự tìm kiếm hết sức cực nhọc, vất vả, với nhiều mồ hôi và căng thẳng bức xúc. Đó là tinh thần tìm kiếm vật chất, miếng cơm manh áo để sống, là sự lao nhọc vất vả “đổ môi trán mới có mà ăn” như là hậu quả tội lỗi mà con người phải gánh chịu trong thân phận bị rủa sả. Đó là tinh thần tìm kiếm mà “các dân ngoại vẫn thường tìm” nhưng con dân Chúa thì không nên như vậy.

 

Còn tìm (Zeteo) trong câu 33 thì ngược lại. Đó là sự tìm kiếm với tinh thần nhẹ nhàng vui tươi và lòng khao khát tâm linh muốn thờ phượng Chúa; đó là tinh thần tìm kiếm do ý thức được sự nghèo khó tâm linh, đói khát sự công chính bằng sự cầu nguyện, suy ngẫm, nghiên cứu, học hỏi Lời Chúa để biết Chúa, kinh nghiệm Ngài. Đó là tinh thần tìm kiếm của Đa-vít “Hỡi Đức Chúa Trời, Chúa là Đức Chúa Trời tôi, vừa sáng tôi tìm cầu Chúa; Trong một đất khô khan, cực nhọc, chẳng nước, Linh hồn tôi khát khao Chúa, thân thể tôi mong mỏi về Chúa.”

(Thi Thiên 63:1).

 

Nước Đức Chúa Trời

Nước Đức Chúa Trời chỉ về sự tể trị, sự cai trị và sự hiện diện của Chúa trong lòng chúng ta, vì Chúa phán “Nước Đức Chúa Trời ở trong các ngươi.” (Lu-ca 17:21) Tìm kiếm nước Đức Chúa Trời là để Chúa chiếm hữu, hiện diện và hướng dẫn đời sống mình. Tìm kiếm nước Đức Chúa Trời là để Chúa làm trung tâm của đời sống mình, để Ngài điều khiển, hướng dẫn mọi khía cạnh của đời sống. Và một khi Chúa trở nên trung tâm điểm của đời sống mình thì chắc chắn chúng ta sẽ kinh nghiệm phước hạnh của nước trời, đó là “sự công chính, bình an, vui vẻ bởi Thánh Linh.” (Rô-ma 14:17)

 

Sự công chính của Ngài

Không những tìm kiếm nước Đức Chúa Trời mà còn tìm kiếm sự công chính của Ngài nữa. Sự công chính của Ngài chứ không phải sự công chính của chúng ta, tức là sự công chính mà Đức Chúa Trời thực hiện qua Chúa Giê-xu, như Kinh Thánh chép “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời.” (2 Cô-rinh-tô 5:21). Chính nhờ sự công bình đó mà chúng ta được hưởng bao nhiêu phước hạnh thiêng liêng ở các các nơi trên trời. Vì thế chúng ta cần dành thì giờ tìm kiếm để kinh nghiệm một cách cá nhân những phước hạnh Chúa ban cho chúng ta nhờ sự chết chuộc tội của Ngài: “Nhưng người đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, Bởi sự sửa phạt người chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi người chúng ta được lành bệnh.” (Ê-sai 53:5). Nói khác đi, sự công chính của Ngài chính là phước hạnh trong Con yêu dấu của Ngài là Chúa Giê-xu mà Chúa dành sẵn cho chúng ta.

 

Hơn nữa, sự công chính này là nhờ ân điển “họ nhờ ân điển Ngài mà được xưng công bình nhưng không, bởi sự chuộc tội đã làm trọn trong Đức Chúa Giê-xu Christ.” (Rô-ma 3:24). Vì thế, tìm kiếm sự công chính của Ngài cũng là tìm kiếm để kinh nghiệm ân điển kỳ diệu của Ngài mỗi ngày trong đời sống. Chúng ta được cứu bởi ân điển và sống nhờ ân điển ban cho dư dật của Ngài mỗi ngày, như có chép “Và từ nguồn sung mãn của Ngài, tất cả chúng ta đều nhận được ân điển càng thêm ân điển.” Giăng 1:16 – BTTHĐ).

 

Ngài sẽ thêm cho các ngươi mọi điều ấy nữa

Một khi chúng ta ưu tiên tìm kiếm Chúa và những phước hạnh thuộc linh thì những phước hạnh vật chất sẽ được thêm vào một cách dư dật chứ không phải được ban cho nhờ cầu xin. Đây là kết quả tự nhiên, kỳ diệu; không phải chúng ta chạy theo để tìm kiếm phước hạnh mà phước hạnh chạy theo chúng ta, đúng như Đa-vít đã kinh nghiệm “Phước hạnh và sự thương xót sẽ theo tôi”.

 

Chúa hứa sẽ ban phước dư dật cho những tấm lòng khát khao tìm kiếm Ngài “Vì Ngài làm cho lòng khao khát được thỏa thích, khiến cho hồn đói được đầy dẫy vật tốt.” Thi Thiên 107:9).

 

KẾT LUẬN

 

Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra trong tương lai nhưng chúng ta biết chắc rằng Chúa là Đấng yêu thương chăm sóc chúng ta, và Ngài là Đấng nắm giữ tương lai của chúng ta; không có điều gì xảy ra mà vượt khỏi tầm kiểm soát của Ngài. Vì thế, điều chúng ta cần làm khi đối diện với tương lai là không lo lắng, nhưng cứ bước đi bởi đức tin và ưu tiên tìm kiếm nước Đức Chúa Trời và sự công chính của Ngài. Hãy phó thác tương lai cuộc đời cùng những dự tính, kế hoạch của mình trong năm mới này cho Chúa. Hãy hướng về tương lai cặp mắt đức tin và cất lên tiếng hát “Dù không biết ngày mai sẽ thế nào, tôi chỉ sống nếp sống mỗi ngày. Tôi không mơ nơi sang giàu huy hoàng, chân trời tím đổi thay nào hay. Lòng không lo ngày sau sẽ thế nào, tôi chỉ nghe tiếng Chúa nhủ khuyên: ‘Ta đang đi với con trong cuộc đời, vì Ta biết trước con mỗi điều’. Tương lai tôi còn có bao lo buồn, nhưng tâm hồn vẫn luôn bình an. Vì tôi biết Chúa nắm tương lai mình và tôi biết người đi trước tôi.” (TC 720). A-men!

 

Đếm Từng Ngày

Đếm Từng Ngày

 

 

 

 

 

Thời gian lặng lẽ trôi. Từng ngày, từng ngày lùi vào dĩ vãng. Không ai níu thời gian lại được, nhưng ký ức về những ngày đã qua thì có thể quay lại bất cứ lúc nào. Những khi ta nhớ lại những vụ việc được hay mất, tốt hay xấu… thì cảm xúc buồn hay vui, thỏa lòng hay nuối tiếc, như vẫn còn đó trong lòng ta; nhất là những vấp phạm, những giây phút lỡ lầm, những lời không đáng nói mà đã lỡ nói ra, những việc không đáng làm mà trót làm rồi v.v… là những dấu ấn khó phai nhòa trong lòng mỗi người. Nhiều người, nhất là những người phương tây, cho rằng không nên nghĩ về quá khứ nữa, mà chỉ nên hướng đến tương lai để sống và đi tới. Dĩ nhiên, không ai có thể tắm hai lần ở cùng một dòng sông, nhưng trên dòng hồi ức có những điều không đáng cho chúng ta nhìn lại, nhưng cũng có nhiều điều chúng ta không nên dửng dưng để chúng qua đi, mà cần phải nhớ, không phải để bi quan, nhưng để rút ra nhiều bài học bổ ích cho tương lai.

 

Trong tinh thần đó, nhớ lại những được – mất, thăng – trầm trong quá khứ, bởi cảm thúc của Thánh Linh Đức Chúa Trời, ông Môi-se đã ghi xuống những dòng này:

“Cầu xin Chúa dạy chúng con biết đếm các ngày chúng con,

Hầu cho chúng con được lòng khôn ngoan” (Thi Thiên 90:12).

Chúa muốn chúng dạy chúng ta đếm từng ngày như thế nào?

 

“Cầu xin Chúa dạy chúng con…”

 

Trường học dạy chúng ta kiến thức, trường đời dạy chúng ta kinh nghiệm sống, tất cả những điều đó rất cần cho cuộc đời của mỗi người, nhưng vẫn chưa đủ, vì có kiến thức và kinh nghiệm thì vẫn còn cần được sử dụng cho một mục đích đúng mới đem lại ích lợi cho bản thân cũng như cho xã hội. Để sống một cuộc đời như đáng phải sống thì giáo dục, khoa học cũng như con người không thể giúp chúng ta được, nhưng mỗi người phải cầu xin Đức Chúa Trời – Đấng đã tạo dựng nên con người – dạy mình. Người khôn ngoan là người chịu học hỏi để hiểu biết, nhưng đồng thời cũng biết nhờ cậy Chúa để Ngài hướng dẫn, dạy dỗ hầu áp dụng sự hiểu biết đó một cách phải lẽ, hữu ích và đúng mục đích.

 

Ai cũng biết những tay trùm khủng bố là những người rất tinh khôn, nếu không thì pháp luật đã phát hiện, bắt giữ và trừng trị chúng trước khi chúng hành động rồi, nhưng chúng đã sử dụng kiến thức và kinh nghiệm có được để chỉ mưu tính những phương cách giết người. Những kẻ buôn bán ma túy cũng là những người khôn lanh, giỏi tính toán, biết lợi dụng thời cơ, khéo léo dẫn dụ người khác đi vào con đường của mình; rõ ràng chúng đã sử dụng kiến thức và kinh nghiệm để đưa biết bao cuộc đời sa vào hố thẳm. Những tập đoàn sản xuất dược phẩm thường quy tụ toàn những người học cao hiểu rộng, nhưng họ đã sử dụng kiến thức đó để làm ra những thứ thuốc đặc hiệu bán với giá cắt cổ, họ làm giàu trên xương máu bệnh nhân mà không một chút xót thương… Tại sao như vậy? Câu trả lời: vì họ có tất cả những điều họ muốn nhưng lại thiếu điều căn bản cần thiết nhất, đó là “cầu xin Chúa dạy…”

 

Là con cái Chúa, thế mà nhiều khi chúng ta lại chạy chọt, lo lót, tìm đến với con người, với các phương tiện khác, mà quên tìm cầu Chúa là Đấng tạo dựng mình, Đấng sẵn sàng dạy bảo chúng ta, hướng dẫn chúng ta trong mọi lãnh vực của cuộc sống.

 

Hôm nay, mỗi chúng ta hãy đến với Chúa cách mới mẻ và cầu xin Ngài dạy chính mình…

Hãy nhớ, thiếu sự dạy dỗ của Chúa thì cuộc đời ta sẽ thất bại, cho dù có đủ mọi điều.

 

“…biết đếm các ngày chúng con”

 

Vào đêm giao thừa, tại những quảng trường lớn của các thủ đô hay thành phố một số nước, có hằng trăm ngàn người tập trung hào hứng chờ đợi giây phút kết thúc năm cũ và đón chào năm mới bằng cách đếm ngược từng giây theo một chiếc đồng hồ đã lắp đặt sẵn ở đó. Có thể những người này năm nào cũng ra quảng trường ấy để cùng với cả trăm ngàn người khác thích thú đếm ngược thời gian như vậy, nhưng không biết có khi nào họ đếm ngược từng ngày của cuộc đời mình không.

 

Tình hình thế giới trong những năm gần đây rất đáng buồn, số người chết do thiên tai, chiến tranh, bệnh tật và tai nạn thật kinh khủng. Nền kinh tế suy thoái lan khắp toàn cầu, nhiều người trước đây chỉ nghĩ đến việc đếm tiền, thì nay trắng tay, không còn tiền để đếm. Có người trước đây đang vui chơi, nghỉ mát trên bãi biển nổi tiếng ở Thái Lan thì sóng thần đột ngột ập đến; có người đang sống yên ổn trong nhà thì cơn lốc xoáy hay bão dữ ập vào cuốn phăng tất cả; có người đang ngồi êm ái trên chiếc ghế nệm máy bay với biết bao dự tính trong đầu, bỗng tai họa xảy ra v.v… Những người này có lẽ đang mơ tưởng đến tương lai tươi sáng, nào chương trình, nào kế hoạch, nào dự định sẽ triển khai…, nhưng tại giây phút định mệnh ấy, họ đã không còn cơ hội nào nữa: Biết bao người đã không còn cơ hội đếm các ngày của mình.

 

Nhưng làm thế nào, theo cách thức nào để đếm từng ngày của đời mình?

 

Chúa không dạy chúng ta hoài cổ, cứ sống với hồi ức quá khứ mà loay hoay trong sự tự mãn hoặc dày vò trong nỗi tiếc nuối, nhưng Ngài dạy chúng ta cần biết đếm từng ngày với những thành công, thất bại để sẵn sàng hướng đến ngày mai theo hướng dẫn của Ngài. Chúng ta không đếm từng ngày theo phương thức số học, hoặc theo suy nghĩ của riêng mình, nhưng mỗi con cái Chúa cần hạ mình cầu xin Chúa dạy chúng ta biết phải đếm từng ngày như thế nào, những gì cần phải nhìn lại và nhìn lại để làm gì. Đó là…

 

Hầu cho chúng con được lòng khôn ngoan

 

Nhiều người nhìn lại những ngày đã qua chỉ thấy những thất bại ê chề, rồi nản lòng, để cho quá khứ u ám hành hạ đến nỗi phải chết trong tuyệt vọng.

 

Sau khi bán Chúa, ông Giu-đa Ích-ca-ri-ốt hối hận, biết mình sai phạm, nhưng ông lại ngồi đếm những ngày đã qua theo cách của ông, ông cứ loay hoay với chính mình, gặm nhắm mặc cảm phạm tội, chỉ thấy cùng đường tuyệt vọng để rồi chạy trốn bằng cách treo cổ. Nếu ông quay lại ăn năn với Chúa và cầu xin Ngài dạy ông biết nhờ ân sủng Ngài để đếm những ngày của ông, rồi đứng lên bước tới thì chắc chắn lịch sử đời ông đã thay đổi và giúp nhiều người khác được thay đổi theo như cách “đếm” của Sứ đồ Phi-e-rơ khi đối diện với thất bại, lỗi lầm. Sự khôn ngoan chỉ có khi chúng ta biết đếm từng ngày theo sự dạy dỗ của Đức Chúa Trời, vì chính Ngài là nguồn của sự khôn ngoan thật.

 

Đừng bao giờ lầm lũi bước đi một mình rồi khi vấp ngã mới bắt đầu cầu nguyện. Một người thành tâm cầu xin Chúa dạy cho mình biết đếm từng ngày theo ý Chúa, người ấy sẽ được ban cho lòng khôn ngoan để tiếp tục sống những ngày sắp tới một cách đầy ý nghĩa và hữu ích.

 

Từng ngày trôi qua

Từng ngày, từng ngày vẫn đang trôi qua. Hôm nay, Chúa cho chúng ta còn sống trên đất, không phải vì chúng ta tốt mà Chúa gia hạn cho sống thêm, nhưng Ngài chưa đem chúng ta về với Ngài vì Ngài còn giao cho mỗi chúng ta trọng trách để chu toàn. Mỗi người cần ý thức điều này, cần cầu nguyện để biết rõ mục đích, ý muốn của Chúa trên đời sống mình. Biết được mục đích sống là điều rất quan trọng, vì chúng ta sẽ sống cho mục đích đúng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, trong thời gian – từng ngày – Ngài còn ban cho mình.

 

Muốn sống đúng, mỗi người cần bắt đầu từ Đức Chúa Trời, hãy cầu nguyện xin Chúa dạy chính mình biết đếm các ngày đã qua để sống những ngày còn lại cách khôn ngoan.

 

Tôi có mối liên hệ với Chúa như thế nào; có Kinh Thánh trong nhà nhưng có đọc mỗi ngày? Tôi hiểu Em-ma-nu-ên có nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta nhưng trong hoàn cảnh của tôi, tôi có thực sự bình an vì biết Chúa ở cùng mình không? Tôi biết mọi điều tôi có là do Chúa ban cho nhưng tôi thể hiện lòng biết ơn Ngài ra sao?  Đến nhà thờ mỗi tuần nhưng tôi có dốc lòng thờ phượng Chúa? Bỏ tiền vào hộp nhưng tôi có thật sự hiến dâng như Lời Chúa dạy? Nghe giảng, tôi hiểu mình cần chỉnh sửa nhưng sáu ngày kế tiếp trong tuần, tôi có sống theo những gì mình đã nghe và hiểu đó không? Công việc Chúa rất nhiều nhưng tôi có góp phần?…

 

Chúa đặt để chúng ta sống với mọi người trong xã hội, trường học, cơ quan, công trường, nhà máy, nơi chợ búa, với xóm giềng, ngay trong gia đình, tôi đã bày tỏ nếp sống đạo thế nào, đã “làm muối của đất” ra sao? Đã đếm các ngày của mình cách nào? v.v… Tôi biết nhiều anh em trong Chúa nhưng tôi có quan tâm? Tôi thấy nhu cầu bức xúc của một số con cái Chúa, tôi có tự hỏi mình phải làm gì để nâng đỡ họ? Chung quanh tôi có biết bao người chưa biết Chúa, chưa tin nhận Ngài, tôi hiểu rằng như vậy họ sẽ hư mất đời đời trong hỏa ngục nhưng tôi đã làm gì để thực thi đại mệnh lệnh Chúa truyền trước khi Ngài trở lại?

 

Cuộc sống trên đất thật ngắn ngủi và đầy bất trắc. Đang khi Chúa cho chúng ta còn sống, hãy khởi đầu một ngày mới bằng cách cầu xin Chúa dạy chúng ta biết đếm các ngày đã qua – hầu cho mỗi chúng ta có sự khôn ngoan thiên thượng, để sống mỗi ngày còn lại tốt hơn, ích lợi hơn và cuộc đời ta sẽ thực sự tôn cao Danh vinh hiển Chúa.

Ghết-sê-ma-nê – Gô-gô-tha Và Ngôi Mộ Trống.

Ghết-sê-ma-nê – Gô-gô-tha Và Ngôi Mộ Trống.

Ngày thứ năm 11/10/2012 sau buổi ăn sáng thịnh soạn và giờ cầu nguyện tại khách sạn, đoàn hành hương được xe buýt (buýt) đến đón đi tham quan. Vì không biết trước lịch trình trong ngày nên địa điểm đầu tiên mang đến người viết bài này ngạc nhiên lẫn xúc động. Ghết-sê-ma-nê, tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là ép dầu, là một khu vườn nằm một bên sườn thấp của núi Ô-li-ve, nơi Chúa ưa thích, thường đến để cầu nguyện. Không biết ngày xưa Ghết-sê-ma-nê lớn đến mực nào, nhưng Ghết-sê-ma-nê mà người viết bài này thấy được chỉ là một vườn nhỏ, có lẽ vì địa điểm quá lừng danh, các giáo phái khác nhau cất rất nhiều nhà thờ chung quanh ngôi vườn này. Nếu đứng tại một góc vườn, ta có thể nhìn thấy cả khu vườn. Với bàn tay chăm sóc của các nhà thờ chung quanh, Ghết-sê-ma-nê tuy nhỏ bé nhưng rất sạch sẽ, êm đềm, đúng với tinh thần của địa điểm Chúa thường đến cầu nguyện.

 

Vườn Ghết-sê-ma-nê

 

Điểm nổi bật của Ghết-sê-ma-nê là những cây Ô-li-ve trong vườn. Ta có thể nói Ghết-sê-ma-nê là vườn Ô-li-ve. Tour guide hướng dẫn chúng tôi đến cây Ô-li-ve già nhất trong vườn, được 3000 năm, và những cây 2000 năm, cùng thời với Chúa, và cây 1000 năm. Những cây Ô-li-ve cao và lớn này nhìn cũng biết là rất già, vì khô và bộng, nhưng vẫn sống. Trong những cây Ô-li-ve già tại vườn, không biết Chúa đã quỳ gần cây nào trong giờ tương giao thống thiết với Đức Chúa Cha. Người Do Thái tin rằng cây Ô-li-ve bất tử. Hướng dẫn viên nhắc chúng tôi câu chuyện nước lụt thời Nô-ê, sau khi nước bắt đầu rút, chim bồ câu được thả đi và đã bay trở về tàu Nô-ê với một nhánh Ô-li-ve nơi miệng. Trong cơn lụt, mọi sinh vật và cây cối khác đều chết nhưng cây Ô-li-ve vẫn sống.

 

Ngày nay, các du khách không cầu nguyện tại vườn Ghết-sê-ma-nê nhưng thường bước vào một trong những nhà thờ chung quanh để cầu nguyện. Thì giờ dành để tham quan Ghết-sê-ma-nê rất ngắn ngủi nên người viết bài này đã không cầu nguyện nơi đây được. Nhưng Ghết-sê-ma-nê nhỏ bé, êm đềm bắt đầu sống trong tâm trí, mỗi năm khi mùa thương khó lại về, người viết bài này có thể nhìn thấy được hình ảnh Chúa quỳ trong vườn, chiến đấu trong sự cầu nguyện cô đơn. Trong những năm thi hành chức vụ, Chúa vẫn cầu nguyện hàng ngày, thường trong lúc sáng sớm, tại nơi vắng vẽ. Chỉ lần cầu nguyện tại Ghết-sê-ma-nê là lần duy nhất mồ hôi Ngài đổ ra như những giọt máu lớn, vì đó là giờ Ngài phải đi đến một quyết định tối hậu, quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến số phận Ngài và số phận của chúng ta. Chúa có quyền tự do để theo ý Đức Chúa Cha nhưng cũng có trọn quyền tự do để từ chối ý muốn của Đức Chúa Cha trên cuộc đời của Ngài. Bài hát “Gethsemane” (I only want to say) trong vở nhạc kịch “Jesus Christ Super Star” diễn tả nỗi lòng của Chúa trong đêm cầu nguyện đặc biệt, đối với người viết bài này, là bài hát Anh ngữ hay nhất không nằm trong Thánh ca. Kể từ ngày được vinh dự nhìn thấy Ghết-sê-ma-nê, địa điểm này giúp đỡ người viết bài trong những sự lựa chọn giữa ý mình và ý Chúa. Ghết-sê-ma-nê được thăm viếng và nhắc nhở thật nhiều không phải vì địa điểm nhưng vì ĐẤNG ĐÃ QUỲ TRONG VƯỜN CẦU NGUYỆN THỐNG THIẾT ĐỂ THEO Ý ĐỨC CHÚA CHA VÀ SỰ VÂNG PHỤC CỦA NGÀI ĐÃ THAY ĐỔI SỐ PHẬN CỦA CHÚNG TA.

 

Đến ngày hôm sau, thứ sáu 12/10, đoàn tham quan mới được đưa đến chỗ gọi là Cái Sọ, tiếng Do Thái thời Chúa (Aramaic) gọi là Gô-gô-tha, tiếng La-tin gọi là Calvary. Địa điểm này ở bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem, vì Ngài đã bị đóng đinh bên ngoài thành. Từ nơi xử án của Tổng Trấn Phi-lát đến nơi đây khoảng vài cây số, vài sử gia ước định khoảng 3 cây số.

 

Đồi Gô-gô-tha

 

Hướng dẫn viên của ngày hôm nay là một người Do Thái đã tin nhận Chúa, một thanh niên trắng hơn nhưng thấp người hơn Hướng dẫn viên các hôm trước. Anh đã trình bày rõ ràng về địa điểm Gô-gô-tha. Từ sau cái chết của Chúa đến nay, xứ thánh ngập tràn chiến tranh, cảnh máu đổ thịt rơi không dứt và thành Giê-ru-sa-lem đã bao lần bị san thành bình địa. Nên muốn tìm lại những di tích xưa cách chính xác không phải dễ. Tuy nhiên, đây cũng là vùng đất nhiều nhà khảo cổ học đã đào xới để tìm lại những chứng tích của Kinh Thánh. Năm 1842 một nhà thần học người Đức đã tìm ra được nơi xử tội và một ngôi mộ. Đến năm 1883, nơi này đã được một vị tướng Anh quốc, Gordon, cùng nghiên cứu với các nhà thần học, xác nhận địa điểm này là Gô-gô-tha, nơi Chúa bị đóng đinh, dựa vào những lý do sau đây:

 

1. Tên của địa điểm trong Kinh Thánh, cả 04 sách Tin Lành đều ghi là Chỗ Cái Sọ. Hình của khu đất này mang đúng hình của một cái sọ người, vầng trán phía bên trên, hai lỗ mắt sâu hoáy, chiếc mũi đã gãy và bên dưới mũi mang hình của một cái miệng. Cả xứ thánh không có vùng đất nào mang hình như vậy. Đúng là Chỗ Cái Sọ, đúng như tên người xưa đã đặt. Phái đoàn tham quan chúng tôi đã nhìn rất rõ vùng đất này, nhìn gần cũng như nhìn xa, đúng là hình một cái sọ.

 

2. Địa điểm này gần thành Giê-ru-sa-lem cũ, Giăng đoạn 19 đã ghi rằng Ngài chết bên ngoài thành. Địa điểm này nằm bên ngoài thành. Theo những lời diễn tả của 04 sách Tin Lành, địa điểm này đúng như sự diễn tả.

 

3. Dựa theo truyền thống của người dân sống ở vùng đất này, người dân ở đây tin rằng đây là nơi xử tử phạm nhân ngày xưa. Địa điểm này thỏa đáng được một số đòi hỏi của người La Mã: bên ngoài thành, ngay bên xa lộ nơi có nhiều người qua lại để chứng kiến.

 

Mỗi người tham quan Gô-gô-tha đều mang những xúc cảm khác nhau, mỗi người tìm đến Gô-gô-tha đều có những lý do khác nhau, nhưng Gô-gô-tha thu hút con dân Chúa vì điều đã xảy ra và lời kết luận của hướng dẫn viên bao gồm trọn vẹn ý nghĩa của Gô-gô-tha: NGÀI ĐÃ CHẾT NƠI ĐÂY VÌ TỘI LỖI CỦA CHÚNG TA.

 

Ngôi mộ trống

 

Rồi chúng tôi được đưa sang thăm ngôi mộ trống bằng xe buýt. Dù tất cả những nơi chúng tôi tham quan đều đầy xe buýt với khách tham quan nhưng chưa nơi nào tôi thấy nhiều xe buýt và người bằng nơi đây. Ngôi mộ trống của Chúa vẫn là biến cố hàng đầu của lịch sử nhân loại.

 

Những điều Giăng 19:41 đã diễn tả đang hiện ra trước mắt chúng tôi: nơi Chúa bị đóng đinh có một cái vườn, và trong vườn này có một ngôi mộ mới. Ngôi vườn trước mắt tôi thật đẹp và khang trang vì có bàn tay chăm sóc. Ngôi vườn này lớn hơn vườn Ghết-sê-ma-nê, có lẽ vì có người can thiệp nên các giáo phái không xây nhà thờ đầy chung quanh được. Trong khi Ghết-sê-ma-nê mang vẻ hiu quạnh, êm đềm, vắng vẻ, gợi cho người những xúc cảm trầm lặng, lâng lâng, ngôi vườn tại đây mang nét nhẹ nhàng, tươi sáng, như hoa đang bừng nở, như chim đang hót trong lòng. Tôi thấy dấu vết của một sân ép nho hoặc ép Ô-li-ve ngày xưa, những cây trồng theo thứ tự trang nhã, những hàng ghế gỗ sắp theo cách nhóm thờ phượng của nhà thờ ngay trong vườn. Và đang khi ngồi trên những chiếc ghế gỗ này, chúng tôi được nghe hướng dẫn viên trình bày lịch sử cuộc tìm kiếm ngôi mộ trống.

 

Xứ Do Thái đã được khảo cổ học dầy công tìm hiểu. Năm 1867 một người Hy Lạp mua khu đất này và ông bắt đầu đào xới để tìm nước. Tình cờ, ông đã tìm được một ngôi mộ. Liên lạc và cộng tác với một thần đạo gia người Đức, họ bắt đầu đào xới thêm nữa và đã tìm ra một ngôi nhà thờ đã có từ thế kỷ thứ 5. Tại sao có người xây nhà thờ nơi đây? Tại sao có sự thờ phượng nơi đây? Dù không có sử sách nào ghi lại tại sao nơi đây có nhà thờ, nhưng chứng cớ rất rõ ràng là đã có sự thờ phượng nơi đây. Người đầu tiên xác nhận nơi đây là ngôi vườn của mộ Chúa là Tướng Gordon vào năm 1883, một vị Tướng người Anh quốc và cũng là một sinh viên thần học. Năm 1893 Garden Tomb Association (Hội Vườn Mộ) ra đời và một năm sau đó Hội đã mua lại vùng đất này từ nơi người Hy Lạp. Từ đó đến nay, Hội gìn giữ, chăm sóc ngôi vườn này để dành cho sự cầu nguyện và thờ phượng.

 

Câu hỏi được đặt ra là tại sao nơi đây được xem là ngôi mộ của Chúa vì chung quanh thành Giê-ru-sa-lem chắc chắn có rất nhiều ngôi mộ và một số các ngôi mộ ấy thuộc gia đình giàu? Để thỏa đáng cho câu hỏi trên, hướng dẫn viên đã trình bày những điểm như sau:

 

1. Dựa theo Tin Lành Giăng 19:41 ngôi mộ Chúa phải là ngôi mộ mới, chưa chôn ai. Đây là một ngôi mộ được đục bên trong một tảng đá rất lớn với một tảng đá khác nằm bên ngoài để được xử dụng như cửa. Ngôi mộ mới và lớn, nằm trong một khu vườn lớn chắc chắn là ngôi mộ của một gia đình giàu. Giô-sép người Arimathea đã xin phép Phi-lát được chôn Chúa, là một người giàu.

 

2. Ngài bị đóng đinh bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Ngôi mộ nằm trong khu vườn này ở bên ngoài thành, về hướng bắc. Từ nơi khu vườn của ngôi mộ, ta có thể nhìn thấy được thành Giê-ru-sa-lem cũ.

 

3. Ba địa điểm – nơi đóng đinh, khu vườn, ngôi mộ phải gần nhau. Và địa điểm nơi đây hoàn toàn thỏa đáng được điều Giăng 19:41 diễn tả. Đây là một khu vườn dành cho việc trồng trọt, cũng như Ghết-sê-ma-nê là vườn Ô-li-ve thì đây là vườn trồng nho. Người ta tìm được một ao nước rất sâu và rất lớn bên dưới khu vườn, chứa được một triệu lít nước. Điểm này rất quan trọng trong việc chứng minh sự chính xác của địa điểm, nhưng không phải là điểm then chốt.

 

Rồi chúng tôi được sắp hàng để vào thăm mộ. Trong buổi sáng trời nắng đẹp ngày hôm ấy, chúng tôi được đứng trước cửa mộ của Chúa. Bên ngoài cửa mộ, người ta đã khắc trên đá hàng chữ bằng Anh ngữ: Ngài không ở đây đâu – Ngài đã sống lại (HE IS NOT HERE – FOR HE IS RISEN). Du khách tham quan rất đông, phải theo thứ tự để vào bên trong mộ và cũng không ở trong mộ lâu được. Đến phiên, chúng tôi phải cúi người để bước vào mộ vì cửa mộ không cao. Bên ngoài đang nắng sáng, phía trong mộ bỗng tối lại ngay. Người ta để một ngọn đèn rất nhỏ, treo lơ lững trên cao từ một góc để du khách có thể thấy bên trong ngôi mộ. Hơi lạnh toả ra từ đá trong mộ. Ngôi mộ khá lớn, chiều ngang hơn 3 mét và chiều cao hơn 2 mét, gồm có hai ngăn: phòng nhỏ ngay khi bước vào mộ dùng làm phòng cho gia đình than khóc; phòng bên cạnh là nơi đặt xác người. Tuy là hai ngăn nhưng nhìn giống như một vì không có vách ngăn. Ngôi mộ này được đục trong đá lớn đủ chôn cho 03 người, đúng là ngôi mộ riêng của một gia đình giàu và chủ vườn nho này cũng là chủ mộ.

 

Tôi nhìn sửng sờ vào nơi mà hơn 2000 năm trước đây, xác Chúa đã nằm. Bên trong mộ khá tối nên những người muốn chụp hình kỷ niệm phải dùng đèn flash. Số người chờ đợi bên ngoài rất đông nên không ai dám chần chờ lâu trong mộ. Dù chỉ đứng bên trong mộ có đôi phút nhưng cảm xúc lúc ấy sẽ chẵng bao giờ quên: vì tội lỗi chúng ta, Chúa đã phải bước vào thế giới của Tử Thần, và Chúa đã chiến thắng Tử Thần vì chúng ta và cho chúng ta. Chúng con xin tạ ơn Chúa.

 

Sau khi mọi người trong đoàn đều đã thăm mộ, chúng tôi cùng nhau thờ phượng Chúa ngay trong khu vườn nho này, cùng nhau hát những bài thánh ca về sự sống lại, cùng dự Tiệc Thánh. Lời hướng dẫn của hướng dẫn viên sáng hôm ấy như là bài giảng cho chúng tôi, nhất là lời kết luận của anh: “Chúng ta có thể tiếp tục nói về công trình của khảo cổ học trong việc tìm kiếm ngôi mộ thêm vài ngày nữa, nhưng điểm tối quan trọng là khảo cổ học đã tìm được NGÔI MỘ TRỐNG.” Đến phần dâng hiến, mọi người được cho biết một thùng dâng hiến bằng kiếng đặt ở góc vườn sẽ nhận tiền dâng hiến của du khách để Hội Vườn Mộ có thể tiếp tục công tác chăm sóc, gìn giữ ngôi mộ Chúa. Chúa ơi! Dù chúng con biết rõ rằng “Ngài không ở đây đâu – Ngài sống lại rồi”, nhưng ngôi mộ trống này là chứng cớ cho mọi người chưa tin rằng Chúa của chúng con đã chiến thắng Tử Thần, nên chúng con sẽ cùng nhau gìn giữ ngôi mộ Chúa. Chúa đã phán cùng Thô-ma “Phước cho người chẳng thấy mà tin.” Chúng con đã là những người có phước đó. Bây giờ, chúng con đã tin và đã thấy, chúng con là những người có phước nhất đời. Chúng con xin tạ ơn Chúa.

Via Dolorosa – Con Đường Thương Khó

Via Dolorosa – Con Đường Thương Khó

 

 

VIA DOLOROSA

Giăng 19:17-18

 

Khi viết về chặng đường thương khó của Chúa Giê-xu, các sử gia Cơ Đốc đã gọi đoạn đường Chúa Giê-xu đi từ trường án đến pháp trường là Con Đường Thập Tự hay là Đường Gô-gô-tha. Người La Mã gọi nó là VIA DOLOROSA (Chặng Đường Khổ Đau). Khi James M. Stalker viết lịch sử bồi linh về sự thương khó của Chúa Giê-xu, ông đã dành một chương để viết về chặng đường khổ đau – Via Dolorosa. Chặng đường nầy chỉ dài chừng một dặm, nhưng theo Thánh Kinh thì nó rất là xa: Từ thiên đàng đến thế gian, hay từ khi tổ phụ loài người phạm tội trong vườn địa đàng cho đến khi Chúa Giê-xu treo thân trên thập tự giá ở đồi Gô-gô-tha. Thánh Kinh chép: “Đức Chúa Giê-xu vác thập tự giá mình, đi đến ngoài thành, tại nơi gọi là cái Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha. Ấy đó là chỗ họ đóng đinh Ngài” (Giăng 19:17,18a).

 

Sở dĩ gọi chặng đường Chúa đi từ trường án đến đồi Gô-gô-tha là “chặng đường khổ đau”, vì trên:

 

  1. VIA DOLOROSA: CHÚA GIÊ-XU VÁC CÂY THẬP TỰ.

“Đức Chúa Giê-xu vác thập tự giá mình, đi đến ngoài thành, tại nơi gọi là cái Sọ, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Gô-gô-tha” (Giăng 19:17). Sau khi bị kết án tử hình trên thập tự giá, toán lính La Mã bắt Chúa Giê-xu vác thập tự giá đi đến trường án. Đây là cách hành hình của người La Mã đương thời Chúa Giê-xu. Trước khi đóng đinh, họ bắt tử tù vác thập tự giá đi từ trường án đến pháp trường. Đây là cách bêu xấu tử tội và cảnh cáo mọi người chớ có phạm tội. Trong qúa trình tử tội vác thập tự giá đi, toán lính còn đánh đập tàn bạo, dân chúng bao vây la hét, mắng chửi, nguyền rủa v.v..

 

Trên đường đi đến pháp trường, Chúa Giê-xu bị ngã quỵ nhiều lần, và không thể vác thập tự đi nổi, nên toán lính bắt một người đi đường tên là Simôn, người Syren vác hộ Chúa Giê-xu. Thực ra đoạn đường từ trường án đến đồi Gô-gô-tha chỉ chừng một dặm, với sức một người nam 33,34 tuổi không có gì là nặng nhọc. Thế nhưng Chúa Giê-xu không vác đi nổi bởi vì Ngài bị bắt trong đêm thứ 5, bị xử trước tòa án tôn giáo suốt đêm không chợp mắt. Sáng hôm sau họ giải Chúa Giê-xu đến vua Hê-rốt, sau đó trả về Phi-lát và cuối cùng vác thập tự ra pháp trường. Suốt các chặng đường Chúa Giê-xu luôn bị đánh đập, hành hạ không thương xót. Lại nữa suốt đêm Chúa không hề ăn hay uống lấy một hớp nước. Vì vậy, Ngài bị kiệt sức và ngã quỵ.

 

Thực ra không phải Chúa thua mưu hay thất thế đối với con người gian ác; nhưng Chúa tình nguyện nhập thể mang thân xác con người, chịu nhục hình để chuộc tội cho con người. Thánh Kinh chép: “Chính Ngài tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người, Ngài đã hiện ra như một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí chết trên cây thập tự” (Phi-líp 2:7,8). Đây là hành động tự nguyện: “Ta là người chăn hiền lành, người chăn hiền lành vì chiên mình phó sự sống mình… làm giá chuộc nhiều người” (Giăng 10:11, Mat 20:28). Hầu hết các tiên tri của Chúa đều chết trong thành Giê-ru-sa-lem, chỉ con Đức Chúa Trời là bị đóng đinh ngoài thành thánh. Đây là hình thức loại trừ Chúa Cứu Thế của người Do Thái. Ngày nay nhân loại cũng đang tiếp tục loại trừ Chúa ra khỏi đời sống và xã hội của họ. Thái độ của chúng ta đối với Chúa Cứu thế ra sao khi nghĩ về Via Dolorosa?

 

  1. VIA DOLOROSA: CHÚA BỊ TREO TRÊN THẬP HÌNH.

Đóng đinh trên thập tự giá là một trong những cách xử tử dã man nhứt xưa nay. Hình phạt nầy xuất phát từ người Ba Tư và Phê-nê-xi, sau đó người La Mã áp dụng để xử tử những phạm nhân thuộc giới nô lệ hoặc là những người phạm tội nặng như tội nổi loạn, cướp của giết người… công dân La Mã chẳng bao giờ bị xử tử đóng đinh, dầu tội nặng tới đâu cũng không. Vậy mà họ đã đem Chúa Cứu Thế vô tội đóng đinh trên thập tự giá!

 

Có mấy hình thức thập hình: Thập tự hình đơn giản I, Cựu ước gọi là mộc hình. Thập tự hình chữ X, gọi là thập tự thánh Andrew. Thập tự chữ T, gọi là thập tự thánh Anthony. Thập tự Hi Lạp +, bốn cạnh đều nhau và thập tự của người La Mã hay còn gọi là thập tự của Chúa Giê-xu: t thanh đứng dài hơn thanh ngang.

 

Những tử tội ngày nay không bị hành hạ đau đớn thể xác, nhân phẩm cũng không bị chà đạp và tử tội chết rất nhanh, dầu là treo cổ hay xử bắn, tra ghế điện hoặc tiêm thuốc độc, tất cả đều kết thúc nhanh. Thời xưa không như vậy, người bị xử đóng đinh sẽ bị thiệt hại mọi phương diện: Thể xác: Bị lột hết quần áo bêu xấu, bị đóng đinh tay chân đau đớn cùng cực, thần kinh căng thẳng, cơn hấp hối kéo dài. Tinh thần: Nhân phẩm bị chà đạp thậm tệ, bị mọi người nguyền rủa, xa lánh, bị ghép vào hàng kẻ dữ; Chúa Giê-xu bị đóng đinh giữa hai tên cướp khét tiếng thời đó. Tâm linh: Chúa Giê-xu bị Cha Ngài lìa bỏ trong thời gian Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, vì gánh tội lỗi mà Ngài mang thế cho cả nhân loại. Những khổ nạn Chúa Giê-xu chịu thật là đau đớn: “Ngài đã vì tội lỗi chúng ta mà bị vết, vì sự gian ác chúng ta mà bị thương, bởi sự sửa phạt Ngài chịu chúng ta được bình an, bởi lằn roi Ngài chúng ta được lành bịnh… Đức Giê-hô-va đã làm cho tội lỗi của hết thảy chúng ta đều chất trên Ngài” (Ê-sai 53:5,6).

 

Tại sao Chúa Giê-xu vô tội phải chịu nhục hình khốn khổ như vậy. Thánh Kinh giải đáp: “Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng vốn chẳng biết tội lỗi trở nên tội lỗi vì chúng ta, hầu cho chúng ta nhờ Đấng đó mà được trở nên sự công bình của Đức Chúa Trời” (II Côr 5:21).

 

Ngày nay thập tự giá đã trở thành biểu tượng của tình yêu và nhiều người, kể cả người không tin Chúa cũng trang sức thập tự giá, nhưng ai biết được rằng từ ban đầu nó là một dụng cụ xử tử dã man, chỉ cần nghe đến đã rợn người rồi. Vì tính chất dã man của nó nên nhà văn Cicero của La Mã viết: “Người La Mã không nên để bóng dáng thập tự giá trong trí, dầu chỉ là ý nghĩ thoáng qua cũng không”. Thế nhưng từ khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, Chúa đã biến sự dã man của hình cụ thập tự giá trở thành biểu tượng của tình yêu được vô số người yêu quý. Cũng vậy Chúa sẽ biến đổi tất cả những cuộc đời xấu xa gian ác, biết ăn năn thống hối, lìa bỏ tội, hết lòng tin thờ Chúa và biến họ trở nên thánh nhân. Ngài còn phục hồi những cuộc đời thân tàn ma dại trở nên lành mạnh, hữu dụng, được Chúa yêu người mến. Kết thúc của Via Dolorosa thật là vinh quang.

 

III. VIA DOLOROSA: DẪN ĐẾN TOÀN THẮNG NƠI MỘ TRỐNG.

Điều kỳ diệu mà Chúa Giê-xu đã làm trên đồi Gô-gô-tha là Ngài hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại. Khi Chúa Giê-xu bị bắt trong vườn Ghết-sê-ma-nê, bị hành hạ đau đớn trong trường án và bị đóng đinh trên thập tự giá, những kẻ thù của Chúa gồm có giới lãnh đạo tôn giáo thời đó lẫn đế quốc La Mã, và cả thế lực Satan ma qủy đều reo mừng, tưởng đã giết được Chúa Giê-xu và phá hỏng chương trình của Đức Chúa Trời. Nhưng tất cả đã lầm lẫn, sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá chính là giải pháp cứu chuộc tội lỗi nhân loại, như Thánh Kinh chép: “Bởi thập tự giá, Ngài đã làm cho sự thù nghịch tiêu diệt, nên nhờ thập tự giá đó Ngài khiến cả hai (Do Thái và Ngoại bang) hiệp thành một thể mà làm hòa thuận với Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 2:16). Tuy nhiên, cuộc đời Chúa Giê-xu không kết thúc ở thập tự giá mà ở ngôi mộ trống, nghĩa là Chúa Giê-xu đã phục sinh: “Đấng Christ đã chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn đến ngày thứ ba, Ngài sống lại theo lời Kinh thánh và Ngài đã hiện ra cho Sêpha, sau lại hiện ra cho mười hai môn đồ, rồi cùng trong một lần Ngài hiện ra cho 500 anh em xem thấy” (I Côr 15:3-6).

 

Giải pháp cứu chuộc nhân loại của Đức Chúa Trời qua Giê-xu khác với cách cứu nhân độ thế của các giáo chủ đời nầy. Trong khi các giáo chủ đưa ra nhiều giáo điều rất hay với những lời khuyến thiện nhằm động viên người tin làm theo. Chúa Giê-xu thì khác, Ngài lấy chính sinh mạng mình chuộc tội thế nhân. Nợ tội chỉ trả bằng sinh mạng và Chúa Giê-xu “đã phó sự sống mình làm giá chuộc nhiều người” (Mat 20:28). Sở dĩ sự chuộc tội của Chúa Giê-xu được Đức Chúa Trời chấp nhận vì Ngài là Thượng Đế hóa thân làm người. Tất cả mọi con người sinh ra trên đời đều phạm tội, nên không ai cứu ai được. Giống như người không biết bơi không thể cứu người chết đuối được, hay như con cá mắc lưới, càng vùng vẫy càng bị trói chặt, lần lần đuối sức và chết!

 

Không có loại vi khuẩn nào độc hại cho bằng tội lỗi, tác hại của tội làm cho tất cả nhân loại đi dần đến sự chết và hỏa ngục. Thượng Đế thương yêu con người ban ơn giải cứu qua Đức Chúa Giê-xu, muốn được cứu rỗi con người phải tin Chúa Giê-xu. Đây là giải pháp duy nhứt để con người được cứu. Các bạn không thể được cứu bằng một phương pháp nào khác ngoài Chúa Cứu Thế Giê-xu. Chúa Giê-xu “đã bị nộp vì tội lỗi chúng ta, và sống lại vì sự xưng công bình của chúng ta” (Rô-ma 4:25). Chúa chết vì các bạn, cũng đã sống lại để đem niềm hi vọng sống vĩnh cửu đến cho những ai tin thờ Ngài. Xin các bạn hãy mở lòng ra tiếp nhận Chúa ngay giờ nầy, chắc chắn tâm linh lẫn thể xác của các bạn sẽ được Chúa cứu vớt.

Ký Sự: Giê-Ru-Sa-Lem và Bức Tường Than Khóc

Ký Sự: Giê-Ru-Sa-Lem và Bức Tường Than Khóc

 

Bức tường than khóc tại Giê-ru-sa-lem

 

Chiếc xe buýt sang trọng, khổng lồ, chở được 50 hành khách đang chạy bon bon trên xa lộ dài, thẳng tấp, những xa lộ cao tốc của Do Thái vào thế kỷ thứ 21, vào buổi trưa thứ ba, ngày 9/10/2012, người hướng dẫn bỗng nói: “Xin nhìn về bên trái. Thành Giê-ru-sa-lem nằm bên trái của quý vị.” Mọi người đều nhốn nháo cả lên. Cơn buồn ngủ vào lúc giữa trưa biến mất. Một số người đứng lên, tay cầm máy quay phim, người thì cầm máy chụp hình, có người cầm cả điện thoại để sẵn sàng chụp ảnh. Nhưng vì trên xa lộ, chỉ thấy từ xa nên không chụp ảnh được.

 

Rất khó để diễn tả Giê-ru-sa-lem cho người chưa từng thấy mà chỉ biết Giê-ru-sa-lem qua Kinh Thánh. Giê-ru-sa-lem mang những nét không thành phố nào trên thế giới có thể so sánh được. Đây là thành phố được xem là trung tâm của thế giới, và không một thành phố nào trên quả địa cầu bị chiếm đóng, bị cai trị và bị đẫm máu nhiều lần bằng Giê-ru-sa-lem. Diện tích Giê-ru-sa-lem chỉ 125,1 km vuông với khoảng 800.000 người sinh sống tại đây, quá nhỏ và quá thưa người so với Sài Gòn hoa lệ. Giê-ru-sa-lem không nằm trên vùng đất bằng phẳng, nên từ nơi này bước sang nơi bên cạnh, phải đi bộ trên những lối gồ ghề. Giê-ru-sa-lem mang đầy đủ nét đẹp của một thành phố xưa, những căn nhà xưa pha trộn với thế giới văn minh của thế kỷ mới. Dù có một số cao ốc nhưng Giê-ru-sa-lem không có những toà nhà chọc trời như những thành phố lớn của thế giới Tây Phương. Dù diện tích rất nhỏ bé nhưng nhà ở đây không xây san sát nhau nên du khách không có cảm tưởng mình đang đứng trên một vùng đất không lớn. Xa lộ khắp mọi nơi, các khách sạn sang trọng khắp mọi nơi và nhà thờ cũng khắp mọi nơi.

 

Vì người hướng dẫn là một người Do Thái còn trẻ, chân dài, anh đi rất nhanh nên chúng tôi, phái đoàn hành hương phải chạy theo anh, hoặc phải chịu cảnh đứng cách anh quá xa nên không nghe được hết những lời giải thích. Thì giờ tham quan có giới hạn và trôi qua rất nhanh nên người không kịp để xúc cảm dâng tràn ngay trong giây phút được đứng tại một địa điểm quan trọng. Những xúc cảm này đến rất lâu sau đó. Không tả được Giê-ru-sa-lem (tiếng Do Thái là “Yerushalayim”) thì cũng không tả được xúc cảm của người được đặt chân nơi thành thánh, thành phố nổi danh nhất trên quả địa cầu với nhiều tên khác nhau: Thành Đa-vít, núi Moriah, núi Si-ôn… “Yerushalayim” đã xuất hiện từ thời Áp-ra-ham khi ông dâng của lễ trên bàn thờ trên núi Moriah, lúc bấy giờ địa danh này được gọi là Salem. Vào 1.000 năm trước Chúa, Đa-vít đã đánh bại được người Giê-bu-sít, chiếm lấy thành và đổi tên là Thành Đa-vít. Đa-vít chỉnh trang thành thật bền vững. Sau khi Đa-vít thống nhất được 12 chi phái Y-sơ-ra-ên để trở thành một quốc gia độc lập, hùng cường, Yerushalayim trở thành thủ đô của Do Thái. Các vua Do Thái thời xưa đã xây những bức tường thành khổng lồ bao chung quanh Yerushalayim, nhưng vì đã nhiều lần bị xâm lược bởi nhiều đế quốc bạo tàn, các bức tường thành bao quanh này không còn nữa.

 

Nhắc đến Yerushalayim thì phải nhắc đến vườn Ghết-sê-ma-nê nơi trồng ô-liu, nằm tại chân núi Ô-li-ve, nơi Chúa đã trải qua những giờ tranh chiến trong sự cầu nguyện một mình. Phải nhắc đến Dolorosa, con đường đau thương của Chúa bắt đầu từ dinh Phi-lát cho đến nơi gọi là Gô-gô-tha, bên ngoài thành. Từ nơi xe buýt cho du khách dừng lại ở ven đại lộ tại một điểm rất cao, nhóm hành hương được người hướng dẫn dẫn xuống một con đường rất dốc, rất gồ ghề để được bước vào bên trong Giê-ru-sa-lem. Chúng tôi được dẫn đến nghĩa trang xưa nhất và lớn nhất của người Do Thái. Nghĩa trang nằm gần thung lũng Giê-hô-sa-phát, là một phần của thung lũng Kít-rôn và kéo dài đến tận sườn núi Ô-li-ve. Nhiều người Do Thái từ mọi nơi trở về để được chôn tại Yerushalayim.

 

Vụ án của Chúa với kết quả là cái chết thảm khốc của Ngài đã được bốn sách Tin Lành ghi lại ngắn gọn và đầy đủ. Ngoài ra, nhiều tác giả đã viết về vụ án của Chúa, kể cả những luật sư danh tiếng trải qua mọi thời đại, trình bày những chi tiết độc đáo, có một không hai về âm mưu giết Chúa, những nhân chứng dối và những lời chứng dối, cách hành xử của Tổng Trấn Phi-lát… Nhưng một chi tiết được ghi lại trong sách Tin Lành Ma-thi-ơ khiến người viết bài này, mỗi khi đọc lại chi tiết ấy, phải rùng mình. Khi Phi-lát thấy được thái độ của công chúng Do Thái muốn giết Chúa đến mức độ nào và vì không muốn chịu trách nhiệm, Phi-lát đã sai mang một chậu nước, rửa tay mình trước mặt những người khát máu, rồi tuyên bố: “Ta vô tội trước máu của người này”, những người khát máu ấy đã gào lên: “Xin máu của người này đổ trên chúng tôi và con cháu của chúng tôi”.

 

Nói đến thành Giê-ru-sa-lem thì phải nói đến đền thờ Giê-ru-sa-lem vì cả hai được xem như một. Vua Đa-vít muốn xây đền thờ cho Chúa nhưng Ngài không muốn, vì vua cha là một chiến sĩ với bàn tay đẫm máu. Công tác ấy được để lại cho con là Hoàng đế Sa-lô-môn, người được vinh dự dành ra bảy năm xây đền thờ nguy nga, tráng lệ đầu tiên cho Chúa. Người Do Thái yêu mến đền thờ Giê-ru-sa-lem như yêu chính thân họ. Nhưng quan trọng hơn, Chúa yêu mến đền thờ này. Chúa đã phán cùng Sa-lô-môn rằng Ngài đã biệt riêng ra thánh đền thờ này, Danh Ngài sẽ ngự tại đó đời đời, mắt và lòng Ngài sẽ ở đó mãi mãi. Chúa cũng đã nói rằng: “Nhà Cha ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện”. Người Do Thái vẫn hướng về thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ Giê-ru-sa-lem để cầu nguyện. Nền của đền thờ là những tảng đá khối lớn và nặng, được đặt sâu dưới mặt đất. Những tảng đá màu trắng được dùng để xây đền thờ rất lớn và rất đẹp, theo sử gia Josephus, có những tảng đá dài hơn 10m, cao 4m và dày 6m. Các môn đồ khi cùng Chúa bước vào đền thờ Giê-ru-sa-lem đã trầm trồ, khen ngợi sự vĩ đại của đền thờ.

 

Vì ai mà quân đội vua Nê-bu-cát-nết-sa đã tàn phá thành Giê-ru-sa-lem vào năm 586 trước Chúa? II Các Vua đoạn 25 ghi lại hình ảnh đau thương, kinh hoàng, sau hai năm dài bị bao vây, dân và quân đói đến độ các bà mẹ phải đổi con cho nhau để ăn thịt. Vua Ê-xê-chia bỏ chạy, bị bắt và phải chứng kiến cảnh các con trai của mình bị giết. Vua bị móc mắt và bị dẫn về Ba-by-lôn. Đền thờ, cung điện hoàng gia và tất cả cửa trong thành Giê-ru-sa-lem đều bị hủy phá. Vàng bạc, trang cụ quý giá trong đền thờ đều bị chở đi Ba-by-lôn. Giê-ru-sa-lem tan nát, đền thờ sụp đổ, con dân Chúa bị lưu đày… Trong những năm bị lưu đày, nước mắt của người Do Thái không ngưng chảy và một số tác phẩm có giá trị về lịch sử, thơ và văn ra đời, đánh đấu trang sử đau buồn của tuyển dân của Chúa. Nhưng 70 năm sau, Si-ru, vua Phe-rơ-sơ được Chúa truyền xây lại Giê-ru-sa-lem lần thứ nhì. E-xơ-ra và Nê-hê-mi lãnh đạo công tác xây dựng đền thờ và tường thành Giê–ru-sa-lem. Nhưng rồi nhiều trăm năm sau, đền thờ bị hư hại nặng nề. Hê-rốt Đại Đế xây dựng lại đền thờ lần thứ ba vào năm thứ 19 trước Chúa trên cùng nền cũ. Đây là đền thờ mà Chúa cùng các môn đệ đến thăm viếng thường xuyên.

 

Trên đường Chúa đến nơi gọi là Gô-gô-tha, nhiều phụ nữ đi theo đoàn hành quyết, có người kêu khóc, có người vừa đấm ngực vừa kêu khóc. Chúa đã dừng lại, bảo họ đừng than khóc vì Ngài, “nhưng hãy khóc cho các con và con cháu của các con”. 40 năm sau Lời Chúa tuyên bố, Hoàng Đế La Mã Titus mang quân đội đến hủy thành Giê-ru-sa-lem và đền thờ. Họ đốt Giê-ru-sa-lem cùng với đền thờ, vạch các tảng đá để lấy vàng của đền thờ đã chảy ra nằm trong kẹt các tảng đá. Đúng như Lời Chúa đã nói, đền thờ Giê-ru-sa-lem không còn một tảng đá nào nằm chồng trên nhau cả.

 

Đền thờ Giê-ru-sa-lem hôm nay chỉ còn lại một bức tường, dài 488m, chiều cao từ 3m đến 8m, được gọi là “Bức tường than khóc”.

 

Thế giới đã nhìn thấy “Bức tường than khóc” (The wailing wall) qua báo chí, TV, phim tài liệu, những hình chụp của các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp bán tại các chợ lộ thiên ở Do Thái, nhưng người viết bài này được Chúa cho đứng đối diện với bức tường. Ngày thứ ba 9/10/2012, hôm ấy chỉ là một ngày thường, không có lễ đặc biệt, nên số người đứng cầu nguyện trước bức tường than khóc cũng không đông lắm, nghĩa là còn có thể chen vào để cầu nguyện được. Đa số người cầu nguyện đứng sát vào tường, hai tay vịn tường, lòng hướng về Đấng Thánh của người Do Thái, cũng là Đấng Thánh của cả nhân loại. Nhiều người lớn tuổi mang theo chiếc ghế xếp nhỏ, ngồi trước bức tường rất lâu. Có những nhóm người, thuộc đoàn thể tôn giáo nào đó, đang đứng chung nhau học Kinh Thánh và cầu nguyện. Một nhóm người khác đang hát Thánh ca. Trong cơ hội ngàn vàng, chỉ có một lần trong đời, người viết bài này cũng cố chen vào giữa đám đông, vịn tay trên bức tường, cầu nguyện với Chúa của các từng trời rằng: Xin cho con sống đời đẹp lòng Chúa. Chúng tôi được người hướng dẫn lưu ý hai điểm. Thứ nhất, bức tường này là phần còn lại duy nhất của đền thờ Giê-ru-sa-lem và theo vị trí địa lý của đền thờ, bên sau bức tường này, trước đây, là nơi chí thánh của đền thờ, nơi có sự hiện diện của Chúa. Nên người Do Thái đến đây cầu nguyện. Bức tường than khóc này là đất thánh của người Do Thái. Thứ hai, dù bức tường rất cao nhưng chỉ có phần thấp nhất của bức tường, từ chân tường cho đến 2m cao, bị đổi màu rất rõ. Phần bên trên thật trắng, phần bên dưới đổi màu dơ vì hàng triệu người đã đến đây, đã chống tay vào bức tường này, than khóc với Chúa. Từ thế kỷ thứ 7 trở đi, người ta cố gắng gìn giữ bức tường vì đây là lịch sử của người Do Thái, và cũng là lịch sử của thế giới, nhưng tường cũng có nhiều kẽ nứt nhỏ, và đã có hàng ngàn người viết những tâm thư nhét vào kẽ nứt này gởi đến Chúa. Người hướng dẫn được hỏi rằng quý vị đã về quê hương, sao không xây lại đền thờ Yerushalayim của quý vị. Người hướng dẫn buồn bã trả lời rằng đặt một viên gạch để xây lại Yerushalayim thì sẽ có thánh chiến xảy ra lập tức, vì người Hồi giáo tuyên bố rằng Yerushalayim là đất thánh của họ.

 

Dù bức tường chỉ dài 488m, nhưng theo đúng tinh thần của người Do Thái, họ đã chia tường thành hai phần, phần dài hơn là nơi cầu nguyện của đàn ông, phần ngắn hơn dành cho phụ nữ. Nhưng du khách không bị bắt buộc phải theo sự sắp đặt này, và vì phần tường dành cho đàn ông cầu nguyện rất dài nên đa số du khách cầu nguyện tại đây. Người viết bài này được vinh dự vịn tay vào tường để cầu nguyện nơi người Do Thái dành cho đàn ông. Một đoạn rất ngắn của bức tường, chỉ 8m, thuộc Hồi giáo. Vùng đất nơi các du khách được vào tự do để cầu nguyện trước bức tường thuộc về người Do Thái. Phía bên kia bức tường là vùng đất của Hồi giáo. Ngôi đền thờ Hồi giáo với nóc vàng rực rỡ, huy hoàng, nổi bật trên khung trời xanh, nằm phía bên kia của bức tường than khóc.

 

Lịch sử của bức tường dài 488m này cũng đau thương và đẫm máu như lịch sử của dân tộc Do Thái. Đầu thế kỷ thứ 20, khi phong trào ái quốc của người Do Thái bừng dậy, sự căng thẳng và xung đột giữa cộng đồng Do Thái và cộng đồng Hồi giáo trở nên dữ dội vì Hồi giáo lo sợ người Do Thái sẽ dùng bức tường than khóc để tiến đến việc chiếm trọn Giê-ru-sa-lem. Những trận chiến, những cuộc bạo động đẫm máu xảy ra nơi chân tường hầu như hàng ngày, đến nỗi một Ủy Ban Quốc Tế được thành lập vào năm 1930 để quyết định chủ quyền của Do Thái và Hồi giáo trên bức tường than khóc. Và Ủy Ban đã quyết định phần nào của tường thuộc người Do Thái, phần nào của Hồi giáo. Sau trận chiến năm 1948 giữa Ả-rập và Do Thái, bức tường than khóc nằm dưới sự kiểm soát của người Jordan và người Do Thái bị cấm không được đến bức tường này. Người Do Thái phải cầu nguyện và than khóc với Chúa ở một nơi khác trong 19 năm, cho đến năm 1967, khi người Do Thái chiếm lại thành Giê-ru-sa-lem, và được trở lại với bức tường than khóc.

 

Thành Giê-ru-sa-lem bé nhỏ hiện nay được chia làm 4 phần, thuộc 4 nhóm: nhóm của người Armenian (Họ đã có mặt ở vùng đất thánh này từ thế kỷ thứ ba, sau Chúa), nhóm của Cơ Đốc giáo, nhóm của Do Thái giáo và nhóm của Hồi giáo. Cuộc chiến giữa người Do Thái và người Palestine là cuộc chiến không tàn, hai bên sẽ chỉ còn một, và người còn lại sẽ là chủ nhân duy nhất của vùng đất thánh. Một Thủ tướng của Do Thái đã tuyên bố rằng đây là vùng đất mà không ngày nào không có tiếng mẹ khóc con. Mọi nỗ lực của thế giới để giúp vùng đất thánh có được hoà bình đã không có kết quả. Chiến tranh sẽ tiếp tục tại đây cho đến ngày Chúa yêu dấu trở lại. Trong khoảng thời gian chờ đợi, những con trai, con gái của Áp-ra-ham vẫn phải tiếp tục mang súng, mỗi ngày sống trong tinh thần đề cao cảnh giác và sẵn sàng đổ máu để bảo vệ quê hương.

 

Người viết bài này không thể nói hết lời tạ ơn Chúa đã cho cơ hội được đứng tại Giê-ru-sa-lem và được vịn tay nơi bức tường than khóc. Giê-ru-sa-lem trước đây chỉ biết qua Kinh Thánh, giờ được đối diện nhau, trong hình hài, xương thịt. Những bài học trong Thánh Kinh bây giờ như những đoạn phim quay trước mắt. Trong những ngày cuối cùng trên đất, Chúa đã ở tại Giê-ru-sa-lem và các làng lân cận. Chúa đã cầu nguyện trên núi Ô-li-ve. Ngài đã dạy dỗ mỗi ngày trong đền thờ. Bàn chân Ngài đã bước trên những tảng đá lớn và đẹp Hê-rốt Đại Đế dùng xây đền thờ. Chúa đã đứng giữa Giê-ru-sa-lem rực rỡ, huy hoàng.

 

Đối diện với “mỹ nhân” Giê-ru-sa-lem, người với nhan sắc bên trên toàn thiên hạ, ta dễ quên mỹ nhân này có vài nan đề trầm trọng. Vào thời Chúa Giê-xu, một trũng rất sâu nằm phía nam của thành Giê-ru-sa-lem, được gọi là thung lũng Hinnom, là nơi trong thời của hai vua gian ác A-háp và Ma-na-se, được dùng để thiêu sống người làm sinh tế cho thần Molech của họ. Sau khi vua Giô-si-a dẹp trừ tội lỗi này, thung lũng vẫn được tiếp tục dùng làm nơi đổ và đốt rác cho toàn thành phố Giê-ru-sa-lem. Mùi hôi thối và lửa cháy đêm ngày nơi đây khiến thung lũng được ví sánh với hình ảnh địa ngục, địa ngục trần gian nhân tạo. Một địa ngục trần gian khác cũng do Giê-ru-sa-lem tự tạo khiến Chúa gọi tuyển dân Ngài là người vợ lăng loàn, một đầy tớ gian ác, một cây nho chỉ sinh trái nho hoang. Giê-ru-sa-lem đã giết nhiều tiên tri Chúa sai đến bằng nhiều hình thức: đâm, chém, cưa, cắt, chặt, ném đá… và bây giờ, Con thừa tự của Chủ vườn nho được sai đến, và Ngài biết trước sẽ bị đối xử như thế nào. Lu-ca đoạn 19 đã tường thuật rằng khi đến gần, thấy thành Giê-ru-sa-lem, Chúa khóc. Đấng Tạo Hóa khóc cho tuyển dân Ngài, Cha khóc cho thân phận của con trai hoang đàng, Chồng khóc cho người vợ phản bội, Chủ khóc cho đầy tớ gian ác và Chủ vườn nho khóc cho những trái nho hoang. Vì yêu, Chúa đã khóc. Lòng Chúa yêu Giê-ru-sa-lem đã được bày tỏ rõ ràng trong Xa-cha-ri 8:3: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta đã xây lại cùng Si-ôn, và ta sẽ ở giữa Giê-ru-sa-lem; Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thành chân thật; núi của Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ được gọi là núi thánh”, Ngài cũng đã hứa rằng: “Ta là tường bằng lửa chung quanh nó, và là sự vinh hiển ở giữa nó” (2:5).

 

Vào lúc 4 giờ 30 phút chiều cùng ngày, phái đoàn hành hương rời Giê-ru-sa-lem để trở về khách sạn. Lòng đầy bồi hồi, thương cảm, xúc động, nửa muốn khóc và nửa muốn cười khi từ giã Giê-ru-sa-lem, nửa thương, nửa giận khi nhìn lại thành phố của Chúa xa dần theo chiếc xe đang lăn bánh, tự hỏi không biết bao giờ được gặp lại.

 

Lòng Chúa yêu thương tuyển dân Do Thái và Giê-ru-sa-lem cùng đền thờ rất lớn và không thay đổi. Giê-ru-sa-lem, núi Si-ôn là nơi tiếng kèn sẽ thổi, loan báo giờ phút Chúa trở lại. Nếu không có cơ hội thứ hai gặp lại Giê-ru-sa-lem thì người viết bài này xin nói rằng: Yerushalayim – hẹn gặp lại vào ngày tiếng kèn thiên sứ thổi.

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương V (Phần cuối)

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương V (Phần cuối)

 

Sống Cuộc Đời Tận Hiến

 

Đa-ni-ên đã trải qua gần như trọn đời lưu đày tại Ba-by-lôn. Ông đã phục vụ cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua Bên-xát-sa, và bây giờ là Đa-ri-us người Mê-đi, người thiết lập chính quyền của mình tại Ba-by-lôn sau cái chết của Bên-xát-sa. Đa-ni-ên được bổ nhiệm làm một trong ba quan thượng thơ của vua trên toàn vương quốc (Đa-ni-ên 6:1-2), và ông sớm nổi trội hơn:

 

Vả, Đa-ni-ên lại trổi hơn hai quan thượng thơ kia và các quan trấn thủ, vì người có linh tánh tốt lành; thì vua định lập người trên cả nước (6:3)

 

Lưu ý câu Kinh Thánh này khẳng định rằng Đa-ni-ên có “linh tánh tốt lành.” Đó là cụm từ mà Thái hậu Amytis dùng để mô tả Đa-ni-ên (Đa-ni-ên 5:12). Một số người cho rằng sự hiện diện của linh tánh tốt lành này trong đời sống của Đa-ni-ên là sự bày tỏ bản tánh tin kính của ông. Một số khác xem nó liên quan đến những kỹ năng và tài năng của ông để có thể quản lý các vấn đề của đất nước. Và một số khác xem nó là sự tổng hợp tất cả những gì chúng ta đã chứng kiến trong cuộc đời của ông—sự khác biệt, lòng tin cậy, lòng quan tâm và lòng can đảm.

 

Cho dù bản chất đầy đủ của “linh tánh” này là gì, nó cũng là điều then chốt trong việc đưa Đa-ni-ên một lần nữa đến vị trí quan trọng của sự tôn trọng và thẩm quyền. Tuy nhiên, quyền hành và vị trí cao trọng như vậy lúc nào cũng thu hút sự đố kỵ và ghen ghét, và Đa-ni-ên sớm nhận ra mình là mục tiêu cho những tính xấu này.

Vấn Đề Của Lòng Ghen Tỵ

Các quan thượng thơ và trấn thủ bèn tìm cớ kiện Đa-ni-ên về việc nước; nhưng họ không thể tìm được một cớ nào, hay một sự xấu nào của người, bởi người là trung thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu. Vậy những người đó nói rằng: Chúng ta không tìm được một cớ nào mà cáo Đa-ni-ên nầy, nếu chúng ta chẳng tìm trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời nó. Các quan thượng thơ và trấn thủ đó bèn vào chầu vua và tâu rằng:

Hỡi vua Đa-ri-út, chúc vua sống đời đời! Hết thảy các quan thượng thơ trong nước, các quan lãnh binh, các quan trấn thủ, các quan nghị viên và các đại thần đều đồng tình xin vua ra chỉ dụ, lập một cấm lệnh nghiêm nhặt trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay một người nào ngoài vua, thì, hỡi vua, kẻ ấy sẽ phải quăng vào hang sư tử. Bây giờ, hỡi vua, hãy lập điều cấm đó và ký tên vào, hầu cho không đổi thay đi, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được. Vậy vua Đa-ri-út bèn ký tên lập cấm lệnh đó (6:4-9).

 

Alexander Maclaren, nhà giải kinh tuyệt vời người Xcốt-len vào những năm 1800, đã mô tả vương triều của Đa-ri-út như sau:

 

Vừa hỗn độn vừa ô uế. Sự xa hoa, nhục dục, tham muốn, tư lợi, thần tượng, độc ác, tàn bạo và nhiều điều tương tự trong môi trường xung quanh người đàn ông này. Và giữa những thứ như vậy nảy nở một đóa hoa của đức hạnh, thánh khiết và không tì vết; bởi sự thừa nhận của kẻ thù, và qua đó, không một kẻ kiện cáo nào có thể tìm thấy một dấu hay một vết nhơ nào. Không có hoàn cảnh nào mà trong đó một người phải bị dơ áo xống của mình bởi thế gian. Tuy nhiên, lún sâu trong thứ rác rưởi mà anh ta phải lội qua, nếu Đức Chúa Trời sai anh ta đến đó, và nếu cứ nắm chắc tay Chúa, sự thánh sạch của anh ta sẽ còn trong sạch hơn vì cớ những kẻ bất khiết quanh anh.

 

 

“Kiêu ngạo cơ bản là tranh cạnh… Kiêu ngạo không nhận được niềm vui từ việc đạt được điều gì đó, chỉ vui khi đạt được nhiều hơn người bên cạnh. Chúng ta nói người ta kiêu ngạo vì giàu có, hay thông minh, hay xinh đẹp, nhưng không phải vậy. Người ta kiêu ngạo vì giàu có, thông minh, hay đẹp hơn người khác.— C.S LEWIS

 

Những viên quan ở vị trí thấp hơn phù hợp với triều đình của Đa-ri-út hơn là với nhân cách của Đa-ni-ên, và họ ghét Đa-ni-ên vì giờ đây ông có thẩm quyền cao hơn họ. Kiêu ngạo là tranh cạnh, và đố kỵ là kết quả của lòng kiêu ngạo bị tổn thương. Những con người kiêu ngạo này bị tổn thương bởi sự thăng chức của người đàn ông chính trực này, và họ muốn trừ khử ông.

 

Họ tìm kiếm những bằng cớ để kết tội ông, nhưng họ không thể tìm thấy bất cứ sai lầm nào trong ông. Tại sao? Vì “người là trung thành, trong người chẳng có điều lỗi và cũng chẳng có sự xấu” (6:4). Mặc dầu sống nhiều năm trong một môi trường mà bản chất là một nơi ô uế về đạo đức, Đa-ni-ên vẫn thánh sạch.

 

Tấn công một người có phẩm chất hoàn hảo là điều khó khăn, và những viên quan này biết rõ điều đó.

 

Vậy những người đó nói rằng: Chúng ta không tìm được một cớ nào mà cáo Đa-ni-ên nầy, nếu chúng ta chẳng tìm trong sự thuộc về luật pháp Đức Chúa Trời nó (6:5).

 

Chỉ có một điểm yếu duy nhất của Đa-ni-ên đó là lòng kính sợ Đức Chúa Trời. Một lời chứng mạnh mẽ biết bao – đặc biệt là từ kẻ thù của ông! Chỉ có một cách duy nhất để những kẻ âm mưu này có thể tấn công đó là tấn công vào mối liên hệ của ông với Đức Chúa Trời.

 

Các viên quan sử dụng một mánh khóe lừa bịp để đạt được điều mình muốn, lợi dụng tính kiêu ngạo của Đa-ri-út. Họ xin vua ra một luật mà sẽ làm cho nó hợp pháp trong vòng ba mươi ngày sau đó không ai được cầu khẩn bất cứ thần hay người nào ngoại trừ chính Đa-ri-út (6:6-8). Vì chính Đa-ri-út đang ở vị trí phụ thuộc đối với vua Si-ru người Ba Tư, đây là sắc lệnh nâng ông lên vị trí của một vị thần và làm tăng cảm giác về quyền lực của ông mà Si-ru đã giới hạn.

 

Và hình phạt cho việc vi phạm sắc lệnh này là gì?

“Hễ ai cầu xin thần nào hay một người nào ngoài vua, thì, hỡi vua, kẻ ấy sẽ phải quăng vào hang sư tử” (6:7)

Lòng ghen tị của những viên quan này không có giới hạn. Họ muốn Đa-ni-ên phải chết.

“Bạn không thể trốn chạy điểm yếu của mình; đôi khi bạn phải chiến đấu hoặc phá hủy nó. Và nếu như vậy, sao không là bây giờ, và bạn đang đứng đâu?”- ROBERT LOUIS STEVENSON

 

 

Đa-ri-út đã ký sắc lệnh, và vì đây là “luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ,” nó không thể bị hủy bỏ. Điều này giải thích tại sao họ muốn sắc lệnh này giới hạn trong ba mươi ngày. Sau khi Đa-ni-ên chết, họ có thể trở lại với cuộc sống bình thường.

 

Đa-ri-út dường như là một người tốt. Nhưng cũng giống như tất cả chúng ta, ông cũng có điểm yếu. Trong phút bốc đồng, khi cái tôi của ông được ve vuốt, ông đã thực hiện một quyết định thiếu suy nghĩ và đã phê chuẩn cho luật cấm cầu nguyện của họ.

Năng quyền của lời chứng

Đa-ni-ên rất kính sợ Đức Chúa Trời nên vâng phục Ngài là quan trọng hơn vâng theo những luật lệ sai trái. Điều này làm sáng tỏ một nguyên tắc Thánh Kinh về sự vâng phục hay không vâng phục mà trong đó, khi chúng ta buộc phải chọn lựa giữa việc vâng phục luật của Đức Chúa Trời hay luật của con người, thì chúng ta phải chọn vâng phục luật của Đức Chúa Trời. Trong Tân ước, chúng ta thấy nguyên tắc này được thực hiện bởi các sứ đồ khi họ được lệnh phải ngừng rao giảng. Họ nói: “Thà phải vâng lời Đức Chúa Trời còn hơn là vâng lời người ta” (Công Vụ 5:29).

 

Khi Đa-ni-ên nghe rằng chỉ dụ đó đã ký tên rồi, thì về nhà mình (những cửa sổ của phòng người thì mở về hướng Giê-ru-sa-lem). Tại đó, cứ một ngày ba lần, người quì gối xuống, cầu nguyện, xưng tạ trước mặt Đức Chúa Trời mình, như vẫn làm khi trước (6:10).

 

Đa-ni-ên không tuân theo điều luật phi lý bằng cách cầu nguyện ba lần mỗi ngày, như ông vẫn thường làm trong nhiều năm qua. Đa-ni-ên biết bí quyết của việc sống đời sống thánh khiết giữa một môi trường bất khiết, và ông không muốn thay đổi hay thậm chí thể hiện sự thay đổi để làm thỏa mãn đám đông.

 

Bấy giờ những người đó nhóm lại, thấy Đa-ni-ên đương cầu nguyện nài xin trước mặt Đức Chúa Trời mình (6:11).

Đa-ni-ên đã phá vỡ điều luật của họ vì nó chống lại luật của Đức Chúa Trời – và ông bị bắt. Nhưng nỗi sợ hãi của việc bị bắt không ngăn cản được ông. Đa-ni-ên sẵn sàng chấp nhận những hậu quả của việc vâng phục Đức Chúa Trời.

 

Đây là bài học vô cùng quan trọng cho chúng ta, và nó làm nổi bật hai điều chúng ta cần ghi nhớ: (1) Chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận những hậu quả khi làm điều đúng. Sứ đồ Phi-e-rơ nói: “Nếu anh em phải vì sự công bình mà chịu khổ, ấy thật là có phước. Chớ sợ điều họ sợ và đừng rối trí” (I Phi-e-rơ 3:14). Và (2) Đức Chúa Trời luôn tể trị, thậm chí khi cuộc sống xô đẩy chúng ta một cách bất công như thể quăng vào hang sư tử.

 

Đa-ni-ên bị bắt khi đang cầu nguyện với Chúa, và sẽ phải chịu đau đớn vì cớ sự công bình. Nhưng ông đã được chuẩn bị để làm vinh hiển Đức Chúa Trời.

Sự Bình An Của Đức Chúa Trời

Họ bèn đến chầu vua và tâu cùng vua về cấm lệnh của vua rằng: Hỡi vua, vua chẳng từng ký tên vào một cấm lệnh rằng trong ba mươi ngày, hễ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài vua, thì sẽ phải quăng vào hang sư tử đó chăng? Vua trả lời rằng: Sự đó là thật, theo như luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, không thể đổi được. Họ bèn đáp lại và tâu vua rằng: Đa-ni-ên, là một trong những con cái phu tù Giu-đa, không có lòng kiêng nể vua chút nào, hỡi vua, dầu đến cấm lệnh vua đã ký tên cũng vậy; song nó cứ một ngày cầu nguyện ba lần (6:12-13).

 

Những người này hẳn nhiên rất quỷ quyệt. Đầu tiên, họ nhắc Đa-ri-út nhớ lại sắc lệnh không thể hủy bỏ được của ông. Sau đó họ quay sang tấn công với một lời cáo buộc pha trộn giữa sự thật và vu cáo. Đa-ni-ên không coi thường nhà vua, nhưng ông không chấp nhận coi thường Đức Chúa Trời của mình.

 

Khi vua nghe những lời đó, thì lấy làm buồn bã lắm; vua định lòng giải cứu Đa-ni-ên, và mãi đến khi mặt trời lặn, cố hết sức tìm thế để giải cứu người. Nhưng các người đó nhóm lại cùng vua và tâu rằng: Hỡi vua, xin biết rằng theo luật pháp của người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ, hễ là cấm lệnh hay chỉ dụ nào mà vua đã lập định rồi, thì không thể thay đổi được (6:14-15).

 

Phản ứng của Đa-ri-út cho thấy cuối cùng ông đã hiểu được chuyện gì đang xảy ra, vì ông “lấy làm buồn bã lắm.” Ông nhận ra rằng ông đã thi hành một phán quyết tồi tệ. Dường như không phải ông phiền lòng với Đa-ni-ên hay cách cư xử của Đa-ni-ên, nhưng với chính sự kiêu ngạo của ông.

 

Đa-ri-út cố hết sức để giải cứu Đa-ni-ên vì ông không muốn Đa-ni-ên phải gánh chịu những hậu quả của sắc lệnh ngu ngốc. Ông tìm kiếm một lỗ hổng hợp pháp, nhưng không có. Đa-ri-út bị sập bẫy bởi chính sắc lệnh của ông. Không còn lối thoát nào – Đa-ni-ên phải bị xử tử.

 

Bấy giờ vua truyền điệu Đa-ni-ên đến, và phải ném người vào hang sư tử. Vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ giải cứu ngươi. Người ta bèn đem đến một hòn đá chận nơi cửa hang, và vua đóng ấn mình cùng ấn các đại thần nữa, hầu cho không có điều gì thay đổi được về Đa-ni-ên (6:16-17).

 

Vì bị phát hiện phạm vào tội liên tục hầu việc Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên bị quăng vào hang sư tử. Hình thức trừng phạt đặc biệt này là một cái chết kinh khiếp. Những con sư tử thường xuyên bị bỏ đói, ngược đãi, và bị chọc tức nên chúng sẽ xé xác con người thành từng mảnh.

 

Trong sự tuyệt vọng, Đa-ri-út cố gắng đưa ra một lời an ủi sau cùng dành cho Đa-ni-ên: “Đức Chúa Trời ngươi là Đấng ngươi hằng hầu việc, sẽ giải cứu ngươi.” Thật đáng tiếc, dường như câu nói này không phát xuất từ đức tin, nhưng từ con người theo định mệnh thuyết.

 

Có bao giờ bạn tự hỏi chuyện gì đã xảy ra trong hang sư tử sau khi tảng đá chận miệng hang lại? Donald K. Campell, trong cuốn Daniel: Decoder of Dream (Tạm dịch Đa-ni-ên: Người giải mộng) , đã trích từ cuốn The Prophet-Statesman (Tạm dịch: Chính khách Tiên tri) (, đề nghị rằng khung cảnh có thể diễn ra theo cách sau:

 

Khi các lính canh đóng miệng hang lại và đi về, Đa-ni-ên trượt dần đến đáy hang. Những con sư tử to lớn nhảy xổ ra từ chỗ nằm của chúng đến chỗ ánh sáng chiếu vào, tất cả đột nhiên khựng lại như một chiến mã bị kiềm hãm dây cương bởi một bàn tay mạnh mẽ. Những tiếng gầm rú ban đầu im bặt khi chúng hình thành một đội quân và nhìn chăm vào người đàn ông đứng trong hang của chúng ở vị trí rất dễ để vồ lấy. Một số con thở dài, một số ít rên rỉ, và một số quay lưng trở về chỗ của chúng. Một số khác trong số những con thú dũng mãnh này ngáp dài và nằm xuống sàn, nhưng không một con nào di chuyển tiến tới vị khách của chúng. “Tạ ơn Đức Giê-hô-va” vị tiên tri thở phào. “Ngài đã bịt miệng những con thú dữ tợn này để chúng không làm hại gì được con.”

 

Ông ngồi xuống sàn của hang và tựa lưng vào tường để cho mình cảm giác thoải mái qua đêm. Ngay sau đó, hai con sư tử con di chuyển theo hướng dẫn của ông, không lén lút hay thu mình lấy đà như khi tấn công nhưng lộ rõ sự thân thiện, mỗi con nằm một bên Đa-ni-ên như để giữ ấm và bảo vệ ông trong ngục tối. Chẳng mấy chốc, mẹ của chúng, một con sư tử già, trườn tới và nằm trước tiên tri. Ông vuốt ve nhẹ nhàng trên lưng chúng khi chúng quay đầu và liếm vào tay ông. Vây quanh bởi một con sư tử cái và các con của nó, đầu của ông lão đáng kính dần dần gối trên lưng của một trong hai sư tử con, tất cả ngủ say trong cảnh tĩnh lặng và yên bình tuyệt hảo.

Sự bảo vệ của Đức Chúa Trời

Có thể Đa-ni-ên đang ngủ một cách bình an với những con sư tử, nhưng về phần Đa-ri-út, vì lương tâm ray rức, đã trải qua một đêm khác thường.

Sau đó, vua trở về cung mình, và suốt đêm kiêng ăn, cũng không đem bạn nhạc đến trước mặt mình, và vua không ngủ được (6:18).

 

Lo lắng, cảm giác tội lỗi, ăn không ngon, ngủ không được—đó là tất cả những hậu quả từ sự thất bại của Đa-ri-út khi không nhận ra âm mưu của các quan lại trong triều. Cuối cùng, sau một đêm mất ngủ, vua chỗi dậy và đi đến hang sư tử.

 

Khi vua đến gần hang, lấy giọng rầu rĩ mà kêu Đa-ni-ên; vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Hỡi Đa-ni-ên, tôi tớ Đức Chúa Trời hằng sống! Đức Chúa Trời ngươi mà ngươi hằng hầu việc, có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng? Bấy giờ Đa-ni-ên tâu cùng vua rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! Đức Chúa Trời tôi đã sai thiên sứ Ngài, và bịt miệng các sư tử, nên chúng nó không làm hại chi đến tôi, bởi tôi đã được nhận là vô tội trước mặt Ngài. Hỡi vua, đối với vua cũng vậy, tôi chẳng từng làm hại gì. Bấy giờ vua mừng rỡ lắm, và truyền đem Đa-ni-ên lên khỏi hang. Vậy Đa-ni-ên được đem lên khỏi hang, và người ta không thấy một vết tích nào trên người, bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời mình (6:20-23).

 

Ngay trong những lời của Đa-ri-út, chúng ta thấy sự tác động sâu sắc của cuộc đời Đa-ni-ên trên con người này: “Đức Chúa Trời ngươi mà ngươi hằng hầu việc, có thể giải cứu ngươi khỏi sư tử được chăng?” Thật ngạc nhiên vì Đa-ri-út nghĩ đến khả năng Đức Chúa Trời bảo vệ Đa-ni-ên khỏi những con sư tử. Và rồi, từ trong bóng tối, Đa-ni-ên đã trả lời một cách điềm tĩnh, chắc chắn rằng Đức Chúa Trời thật sự đã bảo vệ ông.

 

Đa-ni-ên không bị hại gì “bởi người đã nhờ cậy Đức Chúa Trời mình” (6:23). Hê-bơ-rơ 11:33 cũng cho chúng ta biết rằng bởi đức tin của Đa-ni-ên đã “bịt mồm sư tử.” Tất nhiên, như Hê-bơ-rơ 11:35-40 cho biết, không phải ý muốn Đức Chúa Trời luôn luôn phải là giải cứu con cái Ngài. Trong Hội thánh buổi ban đầu, hàng ngàn người tử đạo phải làm mồi cho sư tử và được đưa vào cõi đời đời. Nhưng dầu Đức Chúa Trời có giải cứu hay không ở từng thời điểm cụ thể, quyền năng giải cứu vẫn không bao giờ bị giảm bớt. Ngài luôn luôn có thể.

Sức Mạnh Của Sự Ưu Tiên

 

Theo lệnh vua, những kẻ đã kiện Đa-ni-ên ấy cùng con cái và vợ họ đều bị điệu đến quăng vào hang sư tử. Khi họ chưa đến dưới đáy hang, thì những sư tử đã vồ lấy và xé xương hết thảy (6:24).

 

Giống như Ha-man trong sách Ê-xơ-tê bị treo trên chính cây mộc hình của mình, những kẻ kiện cáo Đa-ni-ên bị quăng vào hang sư tử, nơi mà họ phải chịu sự hủy diệt mà họ đã rắp tâm muốn dành cho Đa-ni-ên. Và thậm chí lời tuyên bố đức tin còn mạnh mẽ hơn so với Nê-bu-cát-nết-sa đã từng tuyên bố (4:34-35,37), vua Đa-ri-út viết:

 

Bấy giờ, vua Đa-ri-út viết cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng ở khắp trên đất rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! Ta ban chiếu chỉ rằng, trong khắp miền nước ta, người ta phải run rẩy kính sợ trước mặt Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên; vì Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và còn đời đời. Nước Ngài không bao giờ bị hủy diệt, và quyền Ngài sẽ còn đến cuối cùng. Ngài cứu rỗi và giải thoát, làm những dấu lạ sự lạ ở trên trời dưới đất, đã cứu Đa-ni-ên khỏi quyền thế sư tử (6:25-27)

 

Về phần Đa-ni-ên, câu chuyện của ông có một kết thúc tốt đẹp:

Đa-ni-ên cứ được thạnh vượng như vậy trong đời vua Đa-ri-út và vua Si-ru là người Phe-rơ-sơ (6:28).

 

Đa-ni-ên là sự biểu hiện của Thi Thiên 1:3: “Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sanh bông trái theo thì tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo; Mọi sự người làm đều sẽ thạnh vượng.” Đức Chúa Trời thật sự ban phước cho Đa-ni-ên.

 

Tuy nhiên, khi đang ở ngay giữa cuộc sống của mình, Đa-ni-ên không có một ý niệm gì về một kết cuộc như vậy. Ông biết lời hứa và năng quyền của Đức Chúa Trời, nhưng ông không biết được kế hoạch của Ngài. Ông chỉ biết rằng Ngài muốn ông phải sống một cuộc đời vâng phục để tôn vinh Đức Chúa Trời của ông, bất chấp điều kiện hay hoàn cảnh sống như thế nào, bất chấp cám dỗ hay thử thách đến đâu.

 

Đa-ni-ên cũng biết rằng ông không thể sống mà không cầu nguyện. Chúng ta biết Lời Đức Chúa Trời là sữa, thịt, và bánh của sự sống, nhưng cầu nguyện là hơi thở. Bạn có thể sống trong một khoảng thời gian mà không có thức ăn, nhưng bạn sẽ không sống quá vài phút nếu không thở. Sự cầu nguyện cũng quan trọng như thế.

Bạn có để sự cầu nguyện là ưu tiên trong đời sống mình không?

* * *

 

Chúng ta đang sống trong một thế giới như Ba-by-lôn. Chúng ta bị vậy quanh bởi một nền văn hóa luôn thay đổi, đạo đức mơ hồ, vô cùng rắc rối, và ngày càng xấu xa. Tuy nhiên, ngay trong thế giới này chúng ta được kêu gọi làm những Đa-ni-ên của thế hệ chúng ta. Chúng ta cũng có thể bị đổ vào khuôn của nền văn hóa chúng ta, hoặc giống như Đa-ni-ên, chúng ta có thể sử dụng bóng tối như một cơ hội để phản chiếu ánh sáng của Đức Chúa Trời.

 

Đời sống thuận phục của Đa-ni-ên về sự khác biệt, lòng tin cậy, quan tâm, can đảm, tận hiến là gương mẫu và di sản tuyệt vời cho chúng ta noi theo trong cuộc sống mỗi ngày.

 

Quyết định chọn lựa là của bạn. Bạn sẽ phục vụ Đức Chúa Trời như thế nào trong thế hệ của mình hôm nay?

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương IV

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương IV

Sống Cuộc Đời Can Đảm

 

Được trưởng thành trong những năm 1960 là “một đặc ân lớn lao,” Os Guiness viết trong cuốn The Call (Tạm dịch: Sự Kêu Gọi) (). Không ai có thể tự nhiên có được bất cứ điều gì. Đối với những người biết suy xét, mọi thứ phải qua thử nghiệm và rồi trở lại điểm khởi đầu. “Thách thức này được thể hiện rõ ràng hơn hết trong việc biết điều mình tin và lý do mình tin điều đó.”

 

Đó là là thế hệ của tôi—mọi thứ được yêu mến bởi “sự kiến tạo” và thế hệ trước đây không đơn thuần xem như một sự lựa chọn, nó được xem như một cấu trúc nặng nề cần được tháo dỡ. Những giá trị và những thứ tự ưu tiên trong thế giới của cha mẹ tôi bị nghi ngờ và khước từ một cách rộng rãi bởi một thế hệ chưa từng trải qua những kinh nghiệm hình thành cuộc sống từ thời kỳ Đại suy thoái Kinh tế Toàn cầu và Thế Chiến II. Có quá ít sự quan tâm tìm hiểu bằng cách nào chúng ta mới có được như hôm nay; chỉ có ước muốn chống đối, kháng cự, và loại bỏ thẩm quyền mà thôi.

 

Tương tự, trong thời của Đa-ni-ên, ông đã chứng kiến nhiều điều. Khi còn trẻ ông đã bị bắt đem khỏi gia đình và quê nhà ở Giê-ru-sa-lem đến xứ Ba-by-lôn ngoại bang. Ông được biệt riêng để phục vụ hoàng gia và đã thăng tiến đến vai trò làm người cố vấn quan trọng cho vua Nê-bu-cát-nết-sa, và nhìn thấy bằng chứng về sự can thiệp của Đức Chúa Trời trên mỗi bước đường. Tuy nhiên, trong tất cả những kinh nghiệm tuyệt vời mà Đa-ni-ên đã trải qua, một trong những điều ý nghĩa nhất là nhận thức thuộc linh làm thay đổi đời sống của vua . Chúng ta chỉ có thể hình dung được sự thay đổi trong nhà vua đã thay đổi vương quốc của ông như thế nào, nhưng trong những năm tiếp theo của triều đại Nê-bu-cát-nết-sa chắc hẳn cũng được điều chỉnh bởi sự nhận biết của ông về quyền tối cao của Vua Thiên đàng. Bản thân tôi nhìn thấy hình ảnh thời kỳ vàng son ở Ba-by-lôn với một vị vua công bình chứ không còn độc ác. Không chỉ có quyền lực, mà còn có được sự tôn kính. Một kiểu mẫu mới.

 

Tuy nhiên, bất cứ một sự thiết lập nào về công bình và tôn trọng như thế cũng sẽ mất đi cùng với Nê-bu-cát-nết-sa. Cuối cùng, người thay thế ngôi vị của ông là là một người hoàn toàn hoàn toàn đối lập với mọi điều Nê-bu-cát-nết-sa đã tin cậy. Như thế hệ của chúng ta vào những năm 1960, thay vì coi trọng di sản của ông để lại, con người đó đã không thừa nhận nó.

Một Vị Vua Mới

Khi xem những kinh nghiệm tiếp theo của Đa-ni-ên tại Ba-by-lôn, chúng ta sẽ thấy một vị vua mới—một người bác bỏ tất cả, đặc biệt Đức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nết-sa đã quay trở lại nhiều năm trước đó (Đa-ni-ên 4:34-37). Và, ông tìm cách làm mọi điều có thể để níu giữ những điều ngược lại, đưa vương quốc trở lại với tà thần mà Nê-bu-cát-nết-sa đã từ bỏ để thuận phục Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên.

 

Vào năm 538 T.C, hai mươi ba năm sau khi Nê-bu-cát-nết-sa băng hà, một vị vua mới là Bên-xát-sa, cháu nội của Nê-bu-cát-nết-sa, một người sùng bái bất cứ thần tượng nào ngoại trừ Đức Chúa Trời Chân Thần. Đó là sự sùng bái mà sẽ đem đến sự sụp đổ của ông và cả sự tàn diệt đối với vương quốc của ông.

 

Thành Ba-by-lôn nằm trong sự vây hãm bởi những quân đội của đế chế Mê-đô Ba Tư. Nhưng nhà vua đang hành động một cách kỳ quặc. Giống như Nê-rô, hoàng đế La Mã chơi đàn trong khi thành Rô-ma bị đốt, Bên-xát-sa ra lệnh ăn mừng quốc lễ – mặc dầu sự vây hãm đang đe dọa thành phố.

 

Vua Bên-xát-sa dọn tiệc lớn đãi một ngàn đại thần mình, và vua uống rượu trước mặt họ (Đa-ni-ên 5:1).

 

“Bạn không thể thoát khỏi trách nhiệm của ngày mai bằng cách trốn tránh nó hôm nay.”—APRAHAM LINLCON

 

Tại sao có sự ăn chơi thảnh thơi như vậy trong thời điểm này? Vài lý do có thể như: Thứ nhất, vua muốn đặt dân chúng vào sự thảnh thơi để bảo đảm với họ rằng ông đang kiểm soát được tình hình. Như một người huýt sáo cách căng thẳng trên đường qua nghĩa địa, nhà vua cố gắng tạo ra một bầu không khí yên bình mặc dầu đang lâm nguy. Thứ hai, Bên-xát-sa muốn thể hiện uy quyền của vương quốc mình. Thứ ba, ông ta muốn tán dương các thần của Ba-by-lôn. Những thần tượng này được khắc họa trên các bức tường của sảnh tiệc, và Bên-xát-sa dẫn đầu việc nâng ly tán tụng từng thần trong số đó.

 

Kế đến, khi mọi người đã uống say, nhà vua đã phạm phải một sai lầm tai hại.

 

Vua Bên-xát-sa đương nhấm rượu, truyền đem những khí mạnh bằng vàng và bạc mà vua Nê-bu-cát-nết-sa, cha mình, đã lấy trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, hầu cho vua và các đại thần, cùng các hoàng hậu và cung phi vua dùng mà uống. Người ta bèn đem đến những khí mạnh bằng vàng đã lấy từ trong đền thờ của nhà Đức Chúa Trời, tại Giê-ru-sa-lem; và vua cùng các đại thần, các hoàng hậu và cung phi mình dùng mà uống. Vậy họ uống rượu và ngợi khen các thần bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng sắt, bằng gỗ và bằng đá (5:2-4).

 

 

“Loại bỏ những cảm xúc có hại dễ hơn là kiểm soát, và từ chối không cho chúng xâm nhập dễ hơn là điều khiển sau khi chúng bước vào.”—SENECA

 

Hãy nhớ rằng, vương quốc đang bị bao vây và nhà vua đang cố tìm cách để chống đỡ vương quốc đang lung lay của mình. Vì thế, trong trạng thái say xỉn, ông truyền đem những bình của đền thờ được lấy từ Giê-ru-sa-lem nhiều năm trước đó đến. Tại sao ông làm điều này? Có lẽ ông mong muốn không bị khuất phục trước Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Có lẽ ông muốn chứng tỏ lời tiên tri trước đây (của Đa-ni-ên dành cho ông nội của Bên-xát-sa) về sự sụp đổ của Ba-by-lôn là không đúng. Có lẽ ông nhớ lại thế nào Đa-ni-ên đã làm cho Nê-bu-cát-nết-sa khiêm nhường và ông muốn thể hiện mình là siêu việt.

 

Với bất kỳ lý do gì, trong lúc lẽ ra Bên-xát-sa phải kiêng ăn, ông lại ăn chơi trác táng, ông bày tỏ tất cả sự khinh thường đối với Đức Chúa Trời Chí Cao. Ông uống để tán tụng những thần tượng của mình bằng những bình được biệt riêng để thờ phượng Đức Chúa Trời.

Một Thách Thức Mới

 

Sự nhạo báng của Bên-xát-sa không thể bỏ qua, và những hậu quả đến ngay tức thì. Người ta nói “gieo gió, gặt bão.” Đối với Bên-xát-sa, bão đang đến!

Chính giờ đó, có những ngón tay của bàn tay người hiện ra, viết trên vôi tường cung vua, đối ngay chỗ để chân đèn; và vua trông thấy phần bàn tay đó đương viết. Bấy giờ vua biến sắc mặt, các ý tưởng làm cho vua bối rối; các xương lưng rời khớp ra, và hai đầu gối chạm vào nhau. Vua kêu lớn tiếng truyền vời các thuật sĩ, người Canh-đê, và thầy bói đến. Đoạn, vua cất tiếng và nói cùng những bác sĩ của Ba-by-lôn rằng: Ai đọc được chữ nầy và giải nghĩa ra cho ta, thì sẽ được mặc màu tía, được đeo vòng vàng vào cổ, và được dự bậc thứ ba trong việc chính trị nhà nước (5:5-7).

 

Bên-xát-sa tức thì tỉnh rượu. Ông trở nên tái nhợt và yếu ớt, hai đầu gối chạm vào nhau. Trước đó, ông uống quá nhiều nên không thể đứng vững. Giờ đây ông quá khiếp sợ đến mức không thể đứng được!

 

Ông lập tức đưa ra một giải thưởng cho bất kỳ ai có thể giải nghĩa những chữ viết, và giải thưởng cực kỳ lớn! Bên-xát-sa đã nhận lãnh cương vị quản lý của ngai vàng, vì lịch sử cho chúng ta biết cha của ông, vua Nabonidus đã hóa điên và được chuyển đến cung điện mùa hè tại Shushan. Vì cha của mình còn sống, Bên-xát-sa trông coi ngai vàng khi cha vắng mặt, “bậc thứ ba” là vị trí quyền lực cao nhất của vương quốc!

 

Mặc dầu điều này còn hơn là một đề nghị hào phóng, nhưng tất cả những nhà thông thái của vua đều thất bại, và vua “bối rối lắm; sắc mặt người đổi đi; các quan đại thần đều bỡ ngỡ” (5:8-9). Giờ đây Bên-xát-sa đối mặt với một tình huống mà ông không thể làm chủ được, và ông đã mất kiểm soát.

 

Và rồi, một giải pháp đến từ một nơi không ai nghĩ đến.

 

Bà thái hậu, vì cớ lời của vua và các quan đại thần đã nói, bèn vào trong phòng tiệc, cất tiếng nói rằng: Hỡi vua, chúc vua sống đời đời! Xin vua chớ để tư tưởng bối rối, chớ đổi sắc mặt đi! Trong nước vua có một người, linh của các thần thánh ở trong nó. Về đời vua cha, người ta thấy trong nó có ánh sáng, sự thông minh, khôn ngoan, như sự khôn ngoan của các vị thần. Vậy nên vua Nê-bu-cát-nết-sa, cha vua, chính cha vua, đã lập người lên làm đầu các đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói, bởi vì Đa-ni-ên mà vua đã đặt tên là Bên-tơ-xát-sa, trong người có linh tánh tốt lành, có sự thông biết và khôn sáng để giải được những điềm chiêm bao, cắt nghĩa được những câu kín nhiệm, và làm cho những sự hồ nghi tan chảy. Vậy bây giờ hãy sai gọi Đa-ni-ên, và người sẽ giải nghĩa cho.

 

Thái hậu biết rõ lịch sử. Nhưng lưu ý bà là ai. Bà không phải hoàng hậu, không phải vợ của Bên-xát-sa, vì chúng ta được cho biết rằng những vợ của vua đã ở trong phòng yến tiệc rồi (5:3), thậm chí đang bị xem là đáng hổ thẹn và trái ngược với nghi thức hoàng gia. Bà cũng không phải là hoàng hậu, là vợ của vua Nabonidus, vì hoàng hậu đó đang ở Shushan để chăm sóc cho người chồng điên loạn của mình. Không, đây chắc chắn là thái hậu Amytis, vợ của Nê-bu-cát-nết-sa. Ông quá yêu bà đến nỗi xây dựng cho bà những vườn treo của Ba-by-lôn, một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại, để cho bà bớt nhớ nhà, vì nhà của bà nằm trên ngọn đồi xanh thẳm của miền quê. Bà đã trải qua những kinh nghiệm của vua Nê-bu-cát-nết-sa (Đa-ni-ên 4) và hiểu rõ những gì đã xảy ra và xảy ra như thế nào. Bà không chỉ biết rõ lịch sử mà còn sống trong nó!

Một Cơ Hội Mới

Đa-ni-ên, bấy giờ là một cụ già hơn tám mươi tuổi, được vời đến gặp vua. Thật là một cảnh ấn tượng! Thử tưởng tượng Đa-ni-ên đang đứng đó, giữa một sảnh tiệc cùng với sự sùng bái thần tượng và vô luân của nó, trước một ông vua đang coi thường Đức Chúa Trời mà Đa-ni-ên yêu mến và thờ phượng. Tưởng tượng điều gì xảy ra trong lòng người đàn ông tin kính này, một người đang một lòng sống cuộc đời thánh khiết.

 

Bên-xát-sa đề nghị với Đa-ni-ên cả sự thăng tiến và phần thưởng lớn cho sự giải nghĩa những chữ bàn tay viết trên tường.

 

Ta đã nghe nói về ngươi rằng linh của các thần ở trong ngươi, và người ta đã thấy trong ngươi có ánh sáng, sự thông minh, và khôn ngoan lạ thường. Bây giờ những bác sĩ và thuật sĩ đã được đem đến trước mặt ta để đọc những chữ nầy và giải nghĩa cho ta; nhưng họ không giải nghĩa được. Ta nghe nói rằng ngươi có thể giải nghĩa và làm cho những sự hồ nghi tan chảy. Vậy nếu ngươi đọc được chữ nầy và giải nghĩa cho ta, thì sẽ được mặc màu tía, sẽ mang vòng vàng nơi cổ, và dự chức thứ ba trong việc chính trị nhà nước (5:14-16).

 

Lưu ý rằng Đa-ni-ên không bày tỏ cùng mức độ cảm thương đối vị ông vua này như ông đã từng bày tỏ với Nê-bu-cát-nết-sa. Ông thẳng thừng từ chối món quà của vua và vạch trần tội lỗi của ông ta. Đối với Nê-bu-cát-nết-sa, ông đã tư vấn với lòng thương cảm. Đối với Bên-xát-sa, ông công bố với sự nổi giận thực sự.

 

 

Đâu là nơi có được sự cao trọng nếu thiếu đi sự chân thật?—CICERO

 

Đa-ni-ên bảo vua giữ lại các giải thưởng. Tiếp theo, ông cho vua một bài học lịch sử. Bài học này trở lại với những ngày trong thời của Nê-bu-cát-nết-sa, ông nội của vua, và phơi bày nan đề mà ông đã gặp phải vì sự kiêu ngạo—một nan đề mà cháu nội của ông, Bên-xát-sa cũng đang mắc phải (5:18-21).

 

Trước khi Đa-ni-ên giải nghĩa những chữ viết tay, ông cũng công bố sự đoán phạt của Đức Chúa Trời đối với Bên-xát-sa và xác quyết rằng tội của vua không phải là tội không biết: “…dầu vua đã biết hết các việc ấy, mà lòng vua cũng không chịu nhún nhường chút nào” (Đa-ni-ên 5:22).

 

Tội lỗi của nhà vua không phải là tội không biết. Tội đó là …

·         Kiêu ngạo, được nhìn thấy qua tinh thần ngang ngạnh của vua;

·         Nhạo báng, thể hiện qua việc làm ô uế các bình của đền thờ;

·         Sùng bái thần tượng, được chứng minh bởi việc thờ lạy thần tượng của vua;

·         Phản nghịch, vì vua từ chối để Chúa là Đức Chúa Trời (5:23).

 

Tất cả những điều này xứng đáng với hình phạt của Đức Chúa Trời, và thông điệp viết tay trên tường cho thấy hình phạt đó đang xảy ra:

“MÊ-NÊ, MÊ-NÊ, TÊ-KEN, U-PHÁC-SIN.”

MÊ-NÊ là: Đức Chúa Trời đã đếm nước vua và khiến nó đến cuối cùng.

TÊ-KEN là: Vua đã bị cân trên cái cân, và thấy là kém thiếu.

PHÊ-RẾT là: Nước vua bị chia ra, được ban cho người Mê-đi và người Phe-rơ-sơ (5:26-28).

 

Hình phạt đang được thực thi. Không có đề nghị nào để giảm nhẹ hay cứu chữa; không có lối thoát nào, không có cách nào thoái thác, không có kỹ thuật nào—chỉ có những hậu quả của những lựa chọn ngu ngốc của Bên-xát-sa mà thôi.

 

Ngay đêm đó, vua người Canh-đê là Bên-xát-sa bị giết. Rồi Đa-ri-út là người Mê-đi được nước, bấy giờ tuổi người độ sáu mươi hai (5:30-31).

 

“Thật khó kiên nhẫn với những người nói rằng ‘Không có sự chết’ hay ‘Chết không phải là vấn đề.’ Có sự chết. Và bất cứ điều nào cũng là vấn đề. Và bất cứ điều gì xảy ra cũng đều có những hậu quả, và những hậu quả đó thì không thể nào hủy bỏ hay thay đổi được.”—C.S LEWIS

 

“Ngay đêm đó” những bức tường thành của Ba-by-lôn dường như không thể nào xuyên thủng được đã bị đâm thủng bởi những đội quân của người Mê-đô Ba Tư và thành đã bị đánh hạ. Sử gia Xenophon cho chúng ta biết tướng của Si-ru, Gobryas, đã chinh phục Ba-by-lôn bằng cách ngăn đập con sông chảy dưới các tường thành và dẫn vào trung tâm thành. Sau đó hành quân bên dưới tường thành và đánh chiếm thành.

 

Tuy nhiên, lưu ý rằng trước khi Bên-xát-sa bị giết và nước của ông bị xâm chiếm, ông đã truyền ban những phần thưởng cho Đa-ni-ên, bao gồm vị trí thứ ba trong việc cai trị nhà nước.

 

 

* * *

Bên-xát-sa, người đã bị bại hoại bởi cùng thứ kiêu ngạo mà gần như hủy hoại ông nội của ông, người từng cố thách thức Đức Chúa Trời. Nhưng ông đã thất bại. Hậu quả là ông “bị cân trên cái cân, và thấy là kém thiếu.” Điều này đặt ra câu hỏi mà mỗi chúng ta cần phải trả lời: Tôi được đo lường như thế nào?

 

Tôi được đo lường như thế nào? Không phải trong mắt của đám đông nhưng trong mắt của Đức Chúa Trời?

 

Điều chúng ta không bao giờ được phép quên là chúng ta được kêu gọi trước hết và trên hết là để sống trước mặt Vị Khán giả Duy nhất—không phải những người khác. Nguyện chúng ta sống theo tiêu chuẩn phù hợp với thiết kế của Đức Chúa Trời cho cuộc đời của chúng ta. Phải sống như Đa-ni-ên đã sống, để được đo lường chỉ bởi Chúa mà thôi.

 

Đó là ước muốn làm vui lòng Đức Chúa Trời, và chỉ mình Đức Chúa Trời. Và đó là ước muốn đem đến cho Đa-ni-ên lòng can đảm để đối diện và quở trách nhà vua. Sự hiện diện không thay đổi của Đức Chúa Trời trong đời sống của Đa-ni-ên đã đem lại cho ông một quyết định sắt đá. Và như lỗ hổng đạo đức của Bên-xát-sa đã đem đến những hậu quả nhất định cho cuộc đời ông ta, lòng can đảm của Đa-ni-ên đã đem đến những kết quả lâu dài trong đó có di sản về nhân cách và sự trung tín của ông.

 

Những kết quả trước mắt là gì? Bên-xát-sa đã giữ lời. Trước khi ông bị giết và nước của ông bị xâm chiếm, ông truyền ban những phần thưởng cho Đa-ni-ên.

 

Tức thì, theo lệnh truyền của vua Bên-xát-sa, người ta mặc màu tía cho Đa-ni-ên; đeo vào cổ người một vòng vàng, và rao ra rằng người được dự chức thứ ba trong việc chính trị nhà nước (5:29).

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương III

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương III

 

Sống Cuộc Đời Quan Tâm

Có hai loại quan tâm. Loại thứ nhất là đứng nhìn những tình cảnh đau thương và bi thảm từ xa, lắc đầu trong sự tuyệt vọng và nói những câu đại loại như: “Thật đáng buồn. Thật đáng trách. Tại sao không có ai làm gì hết vậy?” Loại quan tâm thứ hai là tìm cách làm điều gì đó.

 

Sự quan tâm có thể là một động lực lớn lao, như đối với Clara Barton. Lúng túng trước sự thiếu hụt thuốc men và cách điều trị thích hợp cho những người lính bị thương trong Cuộc nội chiến của Mỹ, Barton bắt đầu cung cấp hỗ trợ thuốc men và phương tiện cứu thương đến tiền tuyến. Những nỗ lực và sự can thiệp của bà, cùng sự thể hiện lòng quan tâm bằng vật chất của bà đã cứu vô số người và thể hiện tình người giữa một trong những sự kiện tàn bạo nhất trong lịch sử nước Mỹ. Cuối cùng, việc làm của bà đã trở thành nền tảng hình thành Hội Chữ Thập Đỏ của Mỹ mà hơn 150 năm sau, vẫn tiếp tục “làm điều gì đó” cho những cộng đồng và những cuộc đời cần đến. Sự quan tâm mang tính hành động là sẵn sàng dấn thân.

 

Đã ba mươi năm kể từ khi Đa-ni-ên làm phu tù ở Ba-by-lôn. Đến thành phố phu tù từ khi còn là một thiếu niên, giờ đây Đa-ni-ên đã ở tuổi bốn mươi. Suốt thời gian ở Ba-by-lôn, ông luôn giữ mình trung thành với Đức Chúa Trời của mình, nhưng cũng trở nên bạn của Nê-bu-cát-nết-sa, người đã bắt ông. Tôi nghĩ chúng ta có thể chắc chắn rằng Đa-ni-ên đã cầu thay cho người đàn ông này và thiết lập mối quan hệ với Đức Chúa Trời một cách mẫu mực trước mặt ông ta. Do đó, Nê-bu-cát-nết-sa đã phải đối diện và đương đầu với thách thức. Nhưng, dầu bị lay động, vị đại đế này vẫn không chịu thay đổi. Chưa thay đổi cho đến khi thế giới của Nê-bu-cát-nết-sa bị lay động và Đa-ni-ên can thiệp vào. Lòng quan tâm đối với bạn không cho phép Đa-ni-ên ngồi yên quan sát.

Kết Thúc Ngay Lúc Bắt Đầu

 

Khi đọc phần này trong câu chuyện của Đa-ni-ên, chúng ta thấy ông đóng hai vai: ông là người viết tốc ký, ghi chép lại lời chứng của Nê-bu-cát-nết-sa, và là một phần trong câu chuyện ông đang ghi lại. Câu chuyện bắt đầu:

 

Vua Nê-bu-cát-nết-sa truyền cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng, ở trên khắp đất, rằng: Nguyền cho sự bình an các ngươi được thêm lên! Ta lấy làm tốt lành mà rao cho các ngươi những dấu lạ và sự lạ mà Đức Chúa Trời Rất Cao đã làm ra đối với ta. Ôi! Những dấu lạ của Ngài lớn lao là dường nào! Những sự lạ của Ngài mạnh sức là dường nào! Nước Ngài là nước còn mãi mãi, và quyền thế Ngài từ đời nọ đến đời kia. Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ở yên lặng trong cung ta, và thạnh vượng trong đền ta (Đa-ni-ên 4:1-3).

“Không biết có phải Đức Chúa Trời chỉ ban phước cho một người cách lạ lùng cho đến khi Ngài làm cho người ấy tổn thương một cách cùng cực.” —A.W.Tozer

 

Đối với một vị vua ngoại bang, đây là một tuyên bố khá ngạc nhiên. Nó đánh dấu một sự chuyển hướng lòng trung thành của ông từ thế giới phiếm thần của Ba-by-lôn đến Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Điều gì góp phần vào sự chuyển đổi này? Tất nhiên những điều ông đã thấy qua Đa-ni-ên và những người bạn khi ông trích dẫn các “dấu lạ” (có lẽ những giấc mơ và khải tượng được mô tả trong chương 1 và 2) và những “sự lạ” (có lẽ chỉ lò lửa hực trong Đa-ni-ên 3) đã dự phần. Nhưng tất cả những điều này lên đến đỉnh điểm trong các sự kiện ở Đa-ni-ên 4.

 

Khi bắt đầu câu chuyện của mình, Nê-bu-cát-nết-sa, một ông vua kiêu ngạo từng tìm cách xây dựng một vương quốc đời đời theo tên của chính mình, đã nhận biết “nước còn mãi mãi” của Đức Chúa Trời (4:3). Một con người từng kiêu ngạo, tự mãn, giờ đây trong sự khiêm nhường chân thật, nhìn thấy và công bố sự yếu đuối của mình. Nê-bu-cát-nết-sa thuật lại sự thất bại thảm hại của mình khi chia sẻ những sự kiện mà cũng sẽ làm đau lòng bạn Đa-ni-ên của mình, là người có lòng quan tâm.

Một Tình Huống Nguy Hiểm

 

Một trong những chương trình tivi yêu thích của tôi khi còn nhỏ là Lost in Space (Lạc trong không gian). Trong chương trình đó, gia đình Robinson—một gia đình du lịch không gian—bị ném chệch hướng ra ngoài không gian. Khi cố gắng sống sót qua vô vàn những nguy nan và hiểm nghèo, đôi lúc gia đình Robinson phải trải qua những mối đe dọa vì những hành động mạo hiểm của Will, đứa con sớm phát triển của họ. Không những thế, tình trạng càng tồi tệ hơn vì không ít lần Will gặp phải rắc rối vì phớt lờ những cảnh báo lớn phát ra từ rô-bốt đồng hành của họ: “Cảnh báo! Cảnh báo! Cảnh báo! Nguy hiểm, Will Robinson, nguy hiểm!” Không them đếm xỉa đến những tiếng cảnh báo vang dội đó, chắc chắn thế nào Will cũng gặp rắc rối, và một cuộc mạo hiểm khác tiếp tục hút chúng tôi vào trước cái tivi.

 

Thật đáng tiếc, nguy hiểm không luôn xảy ra kèm theo những bảng cảnh báo. Nó thường lẻn đến bên chúng ta một cách yên lặng, và rồi tấn công đột ngột khi chúng ta ít sẵn sàng để đối diện nhất. Như trường hợp xảy ra với Nê-bu-cát-nết-sa:

 

Ta, Nê-bu-cát-nết-sa, ở yên lặng trong cung ta, và thạnh vượng trong đền ta. Ta thấy một điềm chiêm bao làm cho ta sợ sệt; những ý tưởng của ta ở trên giường, và những sự hiện thấy của đầu ta làm cho ta bối rối. Vậy ta truyền chiếu chỉ, đem hết thảy những bác sĩ của Ba-by-lôn đến trước mặt ta, hầu cho họ giải nghĩa điềm chiêm bao cho ta. Bấy giờ, những đồng bóng, thuật sĩ, người Canh-đê và thầy bói đều đến, ta kể điềm chiêm bao trước mặt họ, nhưng họ không giải nghĩa cho ta (4:4-7).

 

Vua hoàn toàn bị mất cảnh giác. Giống như Đa-vít khi không kháng lại sức quyến rũ của Bát-sê-ba, Nê-bu-cát-nết-sa cũng đang “sống an nhàn” (HĐTT). Điều này có nghĩa ông không ở ngoài chiến trường; không có những kẻ thù chực chờ để khiến ông phải nhạy bén và cảnh giác. Ông đang “thạnh vượng trong đền” của ông, – thỏa mãn với những vinh quang của mình, nghỉ ngơi, tận hưởng thành công! Ông đã sử dụng vô số cuộc đời và tài sản để xây dựng một đế chế cho vinh quang của mình. Nói về sự tôn thờ “thần bản thân”—Nê-bu-cát-nết-sa có thể là mẫu chuẩn cho quan điểm sống này! Thực ra, ông là người rất tự phụ, trong hai câu (4:4-5), ông dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất (ta) không dưới tám lần!

 

“Sự đánh lừa của uy quyền khiến tôi cảm thấy tốt hơn nhiều về chính mình.” — JANE WAGNER

 

Ông cảm thấy vững vàng trong những cuộc chinh phục và vững vàng trong địa vị của mình—nhưng hoàn toàn bất an trong lòng. Có những ý tưởng xuất hiện—và một lần nữa, nó lại đến trong giấc mơ.

 

Giấc ngủ của ông bị gián đoạn bởi một giấc mơ mà như chính ông mô tả, làm cho “sợ sệt” và “bối rối”. Đây là những dấu hiệu của một tấm lòng đau buồn rất cần có một sự khuây khỏa.

 

Ông đã làm gì? Ông tìm kiếm câu trả lời—nhưng không phải từ người bạn Đa-ni-ên của ông. Thay vào đó, như những năm trước đây, vua triệu tập những nhà thông thái Canh-đê. Có lẽ ông sợ điều Đa-ni-ên sẽ nói với ông, hoặc có thể ông nghĩ ông vẫn có thể điều khiển được những người Canh-đê. Tuy nhiên, thực tế là Nê-bu-cát-nết-sa đã sai lầm khi không tham khảo ý kiến của người có thể cho ông những câu trả lời chân thực—và có lẽ đó là người thật sự quan tâm đến ông.

 

Một lần nữa, những người Canh-đê không thể giải nghĩa giấc mơ, và một lần nữa Đa-ni-ên vào vai chính.

Giấc Chiêm Bao Gây Bối Rối

 

Vào ngày 28 tháng 8 năm 1963, Martin Luther King, Jr. trình bày bài diễn văn nổi tiếng Tôi Có Một Giấc Mơ từ những bậc thềm của Đài tưởng niệm Lincoln tại Washington DC. Trong bài diễn văn đó, King chia sẻ giấc mơ của ông về một quốc gia công bằng và bình đẳng chủng tộc, một xứ sở của sự no đủ và hòa bình. Đó là một giấc mơ đem đến hy vọng cho nhiều người, và tập trung vào phong trào dân quyền.

 

Giấc mơ của Nê-bu-cát-nết-sa vô cùng khác biệt. Đó là một giấc mơ của sự thống khổ và đau đớn thay vì hy vọng và yên bình. Không có gì ngạc nhiên khi nó khiến ông phải bối rối đến thế.

 

Trong giấc mơ của mình, vua nhìn thấy một cây ở giữa đất, rất cao. Lá đẹp, nhiều trái , và mọi vật sống tìm thấy nơi trú ẩn, sự bảo vệ, và thức ăn trong những nhành và dưới những lá của nó (4:10-12). Chẳng phải rất bình yên sao?

 

Nhưng sau đó “một đấng thánh canh giữ” xuống từ trời và truyền những mệnh lệnh đáng lo ngại nhất:

  • Hãy đốn cây và chặt nhành nó (4:14)
  • Hãy tuốt lá và rải trái nó ra (4:14)
  • Hãy làm cho thú vật tránh xa khỏi tán nó, và chim chóc khỏi nhành nó (4:14)
  • Hãy để lại gốc và xích lại bằng dây đồng (4:15)

 

Lưu ý phần sau của câu 15 sự thay đổi đại từ “nó” [it] thành “hắn” [him] (theo bản NIV). Cây đó không thật sự là một cây; nó tượng trưng cho một người nào đó, không phải là một thứ gì đó.

 

Nê-bu-cát-nết-sa không biết điều này có nghĩa gì, nhưng ông hết sức bối rối bởi những gì ông đã thấy. Ông kết luận phần mô tả giấc mơ bằng sự thừa nhận rằng ông không chút nghi ngờ về khả năng của Đa-ni-ên giải nghĩa giấc mơ này—dù tốt hay xấu.

Sự Quan Tâm Sâu Sắc

 

Đa-ni-ên cũng hết sức bối rối vì giấc mơ này—quá xúc động đến nỗi không thể nói nên lời trong một lúc.

 

Bấy giờ Đa-ni-ên, gọi tên là Bên-tơ-xát-sa, bị câm trong giây lâu, và những ý tưởng làm cho người bối rối. (Đa-ni-ên 4:19a)

 

Đa-ni-ên biết những gì đang xảy đến, và ông bị sốc bởi điều đó. Ông đau đớn trong lòng bởi những điều phải nói với bạn mình.

 

Đôi khi có những sự thật hay những điều rấtkhó nói—và thường những điều đó cũng gây đau đớn cho người nói lẫn người nghe. Đa-ni-ên không thể không xúc động. Lòng yêu mến sâu sắc đối với nhà vua dẫn đến sự quan tâm sâu sắc đến tình trạng của bạn mình.

 

“Khi một người đồng ý để bạn mang lấy gánh nặng của anh ta, thì bạn đã tìm thấy một tình bạn sâu sắc.”—Real Live Preacher

 

Lưu ý rằng Nê-bu-cát-nết-sa cũng bày tỏ lòng quan tâm đối với Đa-ni-ên. Ông nhìn thấy sự lo âu của Đa-ni-ên và ông cố gắng không để cho Đa-ni-ên phải khó xử. Tôi rất thích thú với việc những người này đã trở nên gần gũi với nhau thế nào sau nhiều năm mặc dầu họ có những khác biệt rõ rệt.

 

Vua lại cất tiếng nói rằng: Hỡi Bên-tơ-xát-sa, đừng cho điềm chiêm bao và sự giải nghĩa làm rối ngươi. (4:19b).

 

Đa-ni-ên đau buồn. Ông biết giấc mơ có lợi cho các kẻ thù của vua. Tuy nhiên ông phải chia sẻ ý nghĩa của giấc mơ đó.

 

Cây là nhà vua (4:20-22). Đó là tương lai của chính Nê-bu-cát-nết-sa đang được báo trước trong giấc mơ khủng khiếp này. Đấng canh giữ ở đây là thiên sứ, được xem như một công cụ của sự phán xét thiêng liêng (4:23). Và thông điệp của giấc mơ thật khắc nghiệt (4:24-27). Đa-ni-ên nói với nhà vua:

  • Vua sẽ chịu đựng bảy năm nhục nhã cùng cực.
  • Người ta sẽ đuổi vua xa khỏi loài người.
  • Vua sẽ ở chung với các loài thú vật, và ăn giống như chúng.
  • Bảy kỳ sẽ qua đi cho đến khi vua học được bài học cần thiết. (Các học giả cho rằng điều này chỉ về bảy năm sẽ qua đi cho đến khi vua học được bài học cần thiết, cho đến khi ông giải quyết vấn nạn, cho đến khi ông xưng nhận tội kiêu ngạo của mình. “Cho đến khi” là một từ giàu nghĩa. Đó là từ ngữ của hy vọng và mục đích, không nhất thiết là một từ chỉ về sự ngắn ngủi.)

 

Đây là những lời thật khó nghe, nhưng mục đích là dạy cho vị vua kiêu căng và ngạo mạn Nê-bu-cát-nết-sa biết hạ mình trước Đức Chúa Trời toàn năng—và gốc cây còn lại bày tỏ rằng vua sẽ được phục hồi, nhưng không bao giờ vinh hiển như xưa.

 

Sự trả lời của Đa-ni-ên thể hiện lòng quan tâm của ông. Ông không thể chỉ đứng nhìn. Ông không thể để bạn mình tự hủy diệt. Ông phải can thiệp. Đa-ni-ên nài xin Nê-bu-cát-nết-sa ăn năn.

 

Vậy nên, hỡi vua, xin hãy nghe lời tôi khuyên vua: hãy lấy sự công bình mà chuộc tội lỗi, hãy thương xót những kẻ nghèo khó để chuộc những điều gian ác mình. Như vậy sự bình an vua còn có thể lâu dài hơn nữa (4:27).

 

Đức Chúa Trời là Đấng thích bày tỏ lòng thương xót (“Bởi tôi biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ, thương xót, chậm giận, giàu ơn, và đổi ý không xuống tai vạ.” Giô-na 4:2). Đa-ni-ên van nài nhà vua từ bỏ tội lỗi và đến với Đức Chúa Trời trong sự ăn năn—nhưng Nê-bu-cát-nết-sa không ăn năn.

Sự Sụp Đổ Khủng Khiếp

 

Hết thảy những sự đó đều đến cho vua Nê-bu-cát-nết-sa (4:28).

 

Mặc dầu Nê-bu-cát-nết-sa đang kể chuyện của mình, nhưng tính trung thực và thẳng thn vẫn được thể hiện trong lời khẳng định này. Đức Chúa Trời với lòng nhân từ, cũng đã cho vua có một năm ân điển (“Khi khỏi mười hai tháng,” 4:29)—một cánh cửa cho sự ăn năn—nhưng vua vẫn không chịu ăn năn. Không chỉ vậy, Nê-bu-cát-nết-sa còn tiếp tục tìm kiếm sự vinh quang riêng của mình—và sự kiêu ngạo đó đã trở nên sự bại hoại của ông. Ông tuyên bố với sự tự mãn rằng:

 

“Đây chẳng phải là Ba-by-lôn lớn mà ta đã dựng, bởi quyền cao cả ta, để làm đế đô ta, và làm sự vinh hiển oai nghi của ta sao?” (4:30).

 

Nhưng lời tuyên bố kiêu căng của vua được tiếp nối bởi lời tuyên bố đoán phạt của Đức Chúa Trời (4:31-32), và lời cảnh báo của giấc mơ đã thành sự thật: vua trải qua bảy năm sống như thể một con thú hoang (4:22). Ông ăn cỏ như bò, vì đó là thứ mà ông đã trở thành! Về mặt y khoa, đây là một tình trạng thực tế, ám chỉ một người tưởng tượng mình là con thú, một loài ăn cỏ, một loài thú hoang. R.K. Harrison mô tả hành vi của một người trong viện tâm thần Anh quốc đã có tình trạng này như sau:

 

Công việc hàng ngay của anh ta là lang thang quanh những bãi cỏ đẹp đẽ với những bãi đất khác xám xịt đã được bao phủ, và thói quen của anh ta là nhổ và ăn những nắm cỏ khi đi đi qua… anh ta không bao giờ ăn thức ăn của bệnh viện cùng với những bệnh nhân khác, và anh ta chỉ uống nước mà thôi… Biểu hiện khác thường duy nhất trên cơ thể được lưu ý là việc để tóc dài, tình trạng móng tay dày và thô kệch. Nếu không có sự chăm sóc y tế, bệnh nhân hẳn có cùng biểu hiện về tình trạng thể chất như trong Đa-ni-ên 4:33 (Trích từ Donald K. Campell, Daniel: Decoder of Dreams, trang 52.)

 

Hãy tưởng tượng bảy năm sống nhục nhã, đê hèn này–và thậm chí không hề nhận thức nó đang xảy ra cho bạn! Hãy tưởng tượng, ngày qua ngày, những kẻ thù chính trị của Nê-bu-cát-nết-sa đang thèm thuồng sự thoái vị của ông. Và hãy tưởng tượng thêm, Đa-ni-ên đang đứng trên ban công của cung điện cùng với vợ của Nê-bu-cát-nết-sa, nữ hoàng Amytis đau buồn, khi họ nhìn thấy nhà vua sống như động vật—một con thú đồng.

 

Trong bảy năm, Nê-bu-cát-nết-sa nhục nhã. Trong bảy năm, Đa-ni-ên đau buồn.

Lòng Thương Xót Lớn Lao

 

Bây giờ, nhìn lại bảy năm, hãy nhớ rằng đây không phải là sự quan sát của ngôi thứ ba. Đây là lời chứng của chính Nê-bu-cát-nết-sa! Sau bảy năm nhục nhã công khai, “cho đến khi” việc cuối cùng xảy đến:

 

Đến cuối cùng những ngày đó, ta đây, Nê-bu-cát-nết-sa, ngước mắt lên trời, trí khôn đã phục lại cho ta, và ta xưng tạ Đấng Rất Cao. Ta bèn ngợi khen và làm sáng danh Đấng sống đời đời, uy quyền Ngài là uy quyền còn mãi mãi, nước Ngài từ đời nọ đến đời kia (4:34).

 

“Cuộc sống là một bài học dài về tính khiêm nhường”
—JAMES M. BARRIE

 

Tính kiêu ngạo không còn, thay vào đó là sự hiểu biết rõ ràng về thân vị và sự vĩ đại của Đức Chúa Trời. Thật là một thay đổi lớn! Giờ đây, thay vì khẳng định về quyền lực của mình, Nê-bu-cát-nết-sa xác quyết rằng không ai có thể được xem là tôn trọng mà không nhờ Đức Chúa Trời, và chỉ mình Đức Chúa Trời mà thôi.

 

Vua Nê-bu-cát-nết-sa sẽ không bao giờ bị như thế nữa, vì cuối cùng ông đã gặp được Đức Chúa Trời mà ông đã nghe biết rất nhiều từ miệng của Đa-ni-ên, bạn ông.

* * *

 

Giữa những khổ đau, điều cần thiết nhất không phải là nhìn thấy rõ ràng tình trạng đau khổ của mình, nhưng là nhìn thấy rõ ràng Đức Chúa Trời, Đấng tể trị những khổ đau đó. Đây chính là Đức Chúa Trời mà nay Nê-bu-cát-nết-sa nhận biết Một bài học đời đời, mạnh mẽđược học theo những cách đau thương nhất.

 

Ở một thời khác liên quan đến sự đau khổ, một vị vua khác (Đa-vít) đã than khóc về sự đau đớn cô đơn mà ông phải trải qua với những lời như sau:

 

Xin Chúa nhìn phía hữu tôi, coi;
Chẳng có ai nhận biết tôi;
Tôi cũng không có nơi nào để nương náu mình;
Chẳng người nào hỏi thăm linh hồn tôi
(Thi Thiên 142:4).

 

Nhưng Nê-bu-cát-nết-sa đã không phải bước đi trên đường đau thương một mình. Trong sách Đa-ni-ên, ông có một người bạn quan tâm, chăm sóc bước đi cùng với ông. Như ông đã có trong khoảng ba mươi năm, Đa-ni-ên bên cạnh ông—thách thức, giúp đỡ, ủng hộ, và tư vấn cho ông. Hơn nữa, Đa-ni-ên không chỉ là một người bạn tâm tình, mà còn là người tạo nên sự khác biệt. Tấm gương về sự trung thành và kiên định của Đa-ni-ên đã mang đến sự ảnh hưởng thuộc linh đời đời trên đời sống của nhà vua. Đa-ni-ên sẵn lòng can thiệp và tạo ảnh hưởng trong thế hệ của ông vì Đức Chúa Trời — ngay cả dưới những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Ông sẵn sàng can dự vào.

 

Edmun Burke nói rằng: “Tất cả những gì cần thiết cho chiến thắng của điều xấu là những người tốt không làm gì cả.” Đây là lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng chúng ta không thể bày tỏ kiểu quan tâm từ xa, đứng bên ngoài và than vãn, nhưng duy trì khoảng cách. Đó là lời nhắc nhở rằng, giống như Đa-ni-ên, chúng ta phải bày tỏ lòng quan tâm bằng cách bước vào, ở bên , và tìm cách giúp đỡ.