Sống Với Lòng Can Đảm – Chương II

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương II

SỐNG CUỘC ĐỜI TIN CẬY

 

Điểm chung của những con người và những trường hợp sau đây là gì?

  • Thủ môn của một đội bóng tham dự World Cup trong loạt sút luân lưu.
  • Một bác sĩ phẫu thuật trong một ca phẫu thuật tim khó.
  • Phi công đang cố hạ cánh trong khi hai động cơ của máy bay ngưng hoạt động.

 

Tất cả những tình huống thử thách này đòi hỏi những cá nhân liên quan phải thể hiện kỹ năng tốt nhất trong những khoảnh khắc đầy áp lực và đòi hỏi sự cẩn trọng. Và đó là nơi chúng ta tìm thấy Đa-ni-ên và những người bạn của ông trong phần tiếp theo của câu chuyện. Họ vượt lên trên áp lực với lòng tin cậy sâu sắc vào Đức Chúa Trời.

 

Sân Khấu Được Thiết Lập

 

Trong năm thứ hai đời vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua thấy chiêm bao, thì trong lòng bối rối và mất giấc ngủ (Đa-ni-ên 2:1)

Câu Kinh Thánh này minh họa tuyệt vời cho câu nói của Shakespeare trong vở Henry IV: “Không dễ nằm chút nào với cái đầu đội vương miện.” Giấc ngủ của Nê-bu-cát-nết-sa bị phá rối bởi những giấc mơ. Nhưng có một giấc mơ đặc biệt khiến ông quan tâm. Như nhà thần học Donald Campbell nói, những mối bận tâm ban ngày đã trở thành những lo lắng vào ban đêm, nên vua thức giấc trong sự rối loạn và triệu tập ngay những người cố vấn cho mình.

 

“Không có áp lực sẽ không có kim cương” – MARY CASE

 

Nhà vua cho gọi “các thuật sĩ, pháp sư, phù thuỷ, và người Canh-đê” (2:2, HĐTT). Thuật sĩ là những văn sĩ thần bí hoặc các học giả. Pháp sư là những người bỏ bùa mê và thầy tư tế. Các phù thuỷ liên quan đến thế giới huyền bí và buôn bán các loại thảo dược, bùa mê. Còn người Canh-đê là những người thông thái. (Vua không cho gọi Đa-ni-ên và những người bạn của ông như vậy, vì có thể họ còn đang trong thời gian được đào tạo.)

 

Khi tất cả được triệu tập trước mặt vua, một cuộc đối thoại diễn ra cho thấy những người được cho là khôn ngoan này phải đương đầu với bao rắc rối.

 

Vua nói cùng họ rằng: Ta đã thấy một chiêm bao; và lòng ta bối rối, muốn biết chiêm bao đó.

 

Những người Canh-đê nói cùng vua bằng tiếng A-ram rằng: Tâu vua, chúc vua sống đời đời! Xin thuật chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ giải nghĩa.

 

Vua trả lời cho những người Canh-đê rằng: Sự ấy đã ra khỏi ta. Nếu các ngươi không nói cho ta biết chiêm bao đó thể nào và lời giải nó làm sao, thì các ngươi sẽ bị phân thây, nhà các ngươi sẽ trở nên đống phân.Nhưng nếu các ngươi tỏ chiêm bao và lời giải nó cho ta, thì các ngươi sẽ được lễ vật, phần thưởng, và vinh hiển lớn từ nơi ta. Các ngươi hãy tỏ cho ta chiêm bao đó và lời giải nó thế nào.

 

Họ lại tâu lần thứ hai rằng: Xin vua kể chiêm bao cho những kẻ tôi tớ vua, và chúng tôi sẽ cắt nghĩa.

 

 

 

Vua rằng: Ta biết chắc các ngươi tìm cách để hoãn thì giờ, vì các ngươi thấy sự ấy đã ra khỏi ta. Nhưng, nếu các ngươi không tỏ cho ta biết chiêm bao, thì cũng chỉ có một luật cho các ngươi; vì các ngươi đã điều đình với nhau đem những lời giả dối bậy bạ nói cùng ta, cho đến ngày giờ sẽ thay đổi. Vậy, hãy nói chiêm bao cho ta, và ta sẽ biết rằng các ngươi có thể giải nghĩa được (2:3-9).

 

Thật là một bi kịch. Tôi tin chắc rằng nhà vua đã có sự nghi ngờ đối với những kẻ này trong một thời gian rồi. Rõ ràng ông đã thắc mắc trước những quan điểm “ba phải” mà họ đem đến trong nơi cần lời khuyên khôn ngoan. Do đó, ông giữ lập trường của mình khi đối diện với những phản kháng của họ và dùng cái chết đe doạ nếu họ không đáp ứng được yêu cầu của ông để giải nghĩa giấc mơ một cách chính xác.

 

Lời khẩn cầu thương xót của họ cho thấy tính nghiêm trọng của sự nguy hiểm họ đang đối diện:

Những người Canh-đê tâu lại cùng vua rằng: Chẳng có người nào trên đất nầy có thể tỏ ra việc của vua; vì chẳng có vua nào, chúa nào, người cai trị nào đem việc như thế hỏi đồng bóng, thuật sĩ, hay người Canh-đê nào.Vì sự vua đòi là hiếm có, và không ai có thể tỏ cho vua được, chỉ có các vì thần không ở với loài xác thịt.

 

Vậy nên vua phát tức mình và giận dữ lắm, bèn truyền mạng lịnh giết chết hết những bác sĩ của Ba-by-lôn.Vậy mạng lịnh đó đã truyền ra; người ta hầu đem giết hết thảy những bác sĩ, lại tìm Đa-ni-ên cùng đồng bạn người để giết (2:10-13).

 

Sau khi những người thông thái thừa nhận họ không có khả năng để giải thích giấc mơ, Nê-bu-cát-nết-sa liền nổi cơn thịnh nộ. Ông quá tức giận đến nỗi ra lệnh tất cả những nhà thông thái—gồm cả Đa-ni-ên và những người trẻ khác đang được huấn luyện—phải bị xử tử. Do đó, Đa-ni-ên và những người bạn của ông bị bắt giam.

 

Nhưng khi những người Canh-đê bảo rằng đòi hỏi của nhà vua là quá đáng, vì chỉ có các thần mới có thể làm được một điều như thế, họ đã vô tình chuẩn bị cho Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên thực hiện điều đó!

 

Những Tấm Lòng Thuận Phục

A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, được sai đi giết tất cả những người thông thái của Ba-by-lôn. Nhưng khi ông tiếp cận Đa-ni-ên, chàng trai Hê-bơ-rơ có khả năng “lấy sự khôn ngoan và tri thức” mà nói với ông (2:14). Đa-ni-ên xin ông giải thích lý do, và A-ri-ốc kể toàn bộ câu chuyện buồn. Tận dụng ngay cơ hội:

 

Đa-ni-ên vào, xin vua cho mình một hạn nữa, hầu có thể giải nghĩa điềm chiêm bao đó cho vua (2:16).

Về cơ bản, Đa-ni-ên nói rằng: “Hãy cho tôi thời gian, tôi bảo đảm có câu trả lời cho vua.” Đây là lời hứa quá lớn!

 

“Tôi tin; xin Chúa giúp đỡ trong sự không tin của tôi!”—Mác 9:24

 

Đoạn, Đa-ni-ên trở về nhà, và tỏ sự ấy cho các bạn mình là Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Người xin họ cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ lòng thương xót họ về sự kín nhiệm nầy, hầu cho Đa-ni-ên và đồng bạn mình khỏi phải chết với những bác sĩ khác của Ba-by-lôn. (2:17-18).

 

Đa-ni-ên chia sẻ gánh nặng với các bạn của mình, và họ bắt đầu cùng cầu nguyện. Họ “cầu Đức Chúa Trời ở trên trời dủ lòng thương xót.” Đây là một sự bày tỏ mạnh mẽ về sự tin cậy thuộc linh của họ. Họ ước ao rằng bởi lòng thương xót, Đức Chúa Trời sẽ can thiệp và giải cứu họ khỏi án tử mà họ sắp phải chịu.

 

Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra cho Đa-ni-ên trong sự hiện thấy ban đêm; Đa-ni-ên bèn ngợi khen Chúa trên trời.Đoạn, Đa-ni-ên cất tiếng nói rằng: Ngợi khen danh Đức Chúa Trời đời đời vô cùng! Vì sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài. Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa, bỏ và lập các vua; ban sự khôn ngoan cho kẻ khôn ngoan, và sự thông biết cho kẻ tỏ sáng. Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm; Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài. Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi! Tôi cảm ơn và ngợi khen Ngài, vì Ngài đã ban cho tôi sự khôn ngoan và quyền phép, và bây giờ Ngài đã khiến tôi biết điều chúng tôi cầu hỏi Ngài, mà tỏ cho chúng tôi biết việc của vua (2:19-23)

 

Đúng như lời cầu xin của các chàng trai , Đức Chúa Trời bày tỏ sự kín nhiệm về giấc mơ của nhà vua cho Đa-ni-ên. Lưu ý một câu tuyên bố hiển nhiên về sự nhậm lời cầu nguyện: “Vậy sự kín nhiệm được tỏ ra.” Cũng hãy lưu ý phản ứng của Đa-ni-ên. Với cái thòng lọng kề sẵn quanh cổ, nhưng phản ứng đầu tiên của ông không phải là tìm kiếm sự nhẹ nhõm hay sử dụng tri thức của mình để có được sự thuận lợi cho mình mà là thờ phượng. Và trọng tâm của sự thờ phượng đó là Đức Chúa Trời toàn năng và sắm sẵn:

  • “Ngợi khen danh Đức Chúa Trời,” danh đó tượng trưng cho đặc tánh của Đức Chúa Trời;
  • “Sự khôn ngoan và quyền năng đều thuộc về Ngài,” không thuộc về Đa-ni-ên;
  • “Chính Ngài thay đổi thì giờ và mùa,” hàm ý Ngài tể trị hoàn toàn trên mọi loài sống;
“Điều xuất hiện trong tâm trí chúng ta khi suy nghĩ về Đức Chúa Trời là điều quan trọng nhất liên quan đến chúng ta.”—A. W. TOZER

“Bỏ và lập các vua,” vì Đức Chúa Trời nắm quyền tối cao trên mọi dân tộc;

  • “Ban sự khôn ngoan … và sự thông biết,” như lời hứa trong Gia-cơ 1:5;
  • “Chính Ngài tỏ ra những sự sâu xa kín nhiệm,” kể cả giấc mơ này.
  • “Ngài biết những sự ở trong tối tăm, và sự sáng ở với Ngài.”

Đa-ni-ên dâng lên Đức Chúa Trời tất cả sự ngợi khen vì Ngài đáp lời cầu nguyện của ông. Thật là một cách thể hiện tuyệt vời của sự thờ phượng!

 

Có gì không thích hợp không khi Đa-ni-ên tạ ơn Đức Chúa Trời vì Ngài đã cứu mạng sống ông? Tất nhiên là không. Nhưng dường như trong tâm trí của Đa-ni-ên sự giải cứu lạ lùng này chỉ là thứ yếu so với sự kỳ diệu của Đức Chúa Trời là Đấng thực hiện điều đó.

Phản ứng của Đa-ni-ên khiến mỗi chúng ta phải xét lại lòng mình để xem đâu là trọng tâm đối với chúng ta:

  • Những ơn phước hay Đấng ban ơn phước?
  • Công việc hay Chúa của công việc?
  • Sự đáp lời cầu nguyện hay Đức Chúa Trời là Đấng đáp lời cầu nguyện?

 

Đó là tất những gì liên quan đến trọng tâm. Và khi không đủ lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, chúng ta dễ đánh mất trọng tâm. Viễn cảnh tương lai của chúng ta trở nên mờ mịt, và chúng ta nhìn thấy cây cối thay vì khu rừng. Tuy nhiên, trọng tâm của Đa-ni-ên luôn rõ ràng trong suốt thời kỳ áp lực giữa sống và chết. Tấm lòng của ông được gắn chặt vào Đức Chúa Trời, và Đức Chúa Trời giúp ông hành động thay vì gục ngã dưới áp lực.

 

Sự kín nhiệm được bày tỏ

Đa-ni-ên cứ tiến bước với lòng tin rằng Đức Chúa Trời sẽ dọn sẵn một con đường.

 

Vậy nên Đa-ni-ên đến nhà A-ri-ốc, là người vua đã truyền cho diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; và nói cùng người như vầy: Đừng diệt những bác sĩ của Ba-by-lôn; nhưng hãy đưa tôi vào trước mặt vua, thì tôi sẽ giải nghĩa điềm chiêm bao cho vua. Bấy giờ A-ri-ốc vội vàng dẫn Đa-ni-ên đến trước mặt vua, và tâu cùng vua như vầy: Tôi đã tìm thấy một người trong những con cái Giu-đa bị bắt làm phu tù, người ấy sẽ cho vua biết sự giải nghĩa đó (2:24-25).

 

Đa-ni-ên đến với A-ri-ốc, quan thị vệ của vua, và nói với ông ta rằng mình có thể giải nghĩa giấc mơ của vua và bảo ông ta không nên giết những nhà thông thái. A-ri-ốc, theo lời đề nghị của Đa-ni-ên, dẫn Đa-ni-ên đến gặp vua, và khi Đa-ni-ên đứng trước vương triều (có lẽ là lần đầu tiên), vua hỏi một câu hỏi mang tính mỉa mai và cưỡng ép:

“Quả thật rằng ngươi có thể tỏ cho ta biết điềm chiêm bao ta đã thấy, và lời giải nó chăng?” (2:26)

Nói cách khác, phải chăng Đa-ni-ên có thể thành công trong khi tất cả những nhà thông thái của vua đã thất bại? Đương nhiên câu trả là “Đúng vậy”.

 

Đa-ni-ên ở trước mặt vua trả lời rằng: Sự kín nhiệm mà vua đã đòi, thì những bác sĩ, thuật sĩ, đồng bóng, thầy bói đều không có thể tỏ cho vua được. Nhưng có một Đức Chúa Trời ở trên trời tỏ ra những điều kín nhiệm; và đã cho vua Nê-bu-cát-nết-sa biết điều sẽ tới trong những ngày sau rốt. Vậy, chiêm bao của vua và các sự hiện thấy của đầu vua đã thấy trên giường mình là như vầy: Hỡi vua, khi vua nằm trên giường, có những tư tưởng về sự xảy đến sau nầy, thì Đấng hay tỏ sự kín nhiệm đã cho vua biết sự sẽ xảy đến. Về phần tôi, sự kín nhiệm đó đã tỏ ra cho tôi, không phải vì tôi có sự khôn ngoan gì hơn người nào sống; nhưng để được giải nghĩa cho vua hiểu, và cho vua biết những ý tưởng trong lòng mình. (2:27-30)

 

Đây không phải là sự khiêm nhường giả dối của Đa-ni-ên. Đó là sự nhận biết thành thật về vai trò của ông trong sự kiện này. Vấn đề thật rõ ràng—tất cả là về Đức Chúa Trời, không phải Đa-ni-ên. Và những hành động của ông thể hiện lòng tin cậy của ông nơi Chúa.

* * *

Đa-ni-ên có khả năng giải nghĩa chính xác giấc mơ của Nê-bu-cát-nết-sa, đó là cơ hội học hỏi rất ý nghĩa cho nhà vua. Nhưng càng có ý nghĩa hơn khi đem lại sự vinh hiển cho Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên:

 

Đoạn, vua cất tiếng nói cùng Đa-ni-ên rằng: Quả thật, Đức Chúa Trời các ngươi là Đức Chúa Trời của các thần, và là Chúa của các vua; chính Ngài là Đấng tỏ ra những sự kín nhiệm, vì ngươi đã có thể tỏ ra sự kín nhiệm nầy.

 

Trong cuộc sống, cũng giống như thời tiết, có những lúc áp cao hay áp thấp – nhưng không bao giờ là không có áp lực. Những lựa chọn của chúng ta trong những thời kỳ không ngừng thay đổi này bày tỏ nhiều điều về chúng ta.

 

Trọng tâm của bạn ở đâu trong những lúc gặp áp lực? Bạn có cố sức tự vệ bằng mọi giá không? Bạn có làm những điều liều lĩnh gây hại cho người khác trong khi cố sức như vậy không? Hay bạn quan tâm nhiều hơn đến những hành động của bạn phản ánh thế nào về Đức Chúa Trời của mình?

 

Trong những khoảnh khắc cần thận trọng, hãy cầu xin Đức Chúa Trời bày tỏ sự hiện diện của Ngài trên đời sống bạn. Hãy dùng những thì giờ này trang bị sẵn sàng để thực hiện những mục đích đời đời và tôn kính Đức Chúa Trời.

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương I

Sống Với Lòng Can Đảm – Chương I

 

Những bài học từ cuộc đời của Đa-ni-ên

(Chuyển ngữ từ cuốn Living with Courage: Lessons from the Life of Daniel của Bill Crowder)

Với sự cho phép của RBC Ministry

 

 

 

 

 

 

Nội dung

Lời tri ân

Lời giới thiệu

Chương 1: Sống Cuộc Đời Khác Biệt

Chương 2: Sống Cuộc Đời Tin Cậy

Chương 3: Sống Cuộc Đời Quan Tâm

Chương 4: Sống Cuộc Đời Can Đảm

Chương 5: Sống Cuộc Đời Tận Hiến

 

 

 

Lời tri ân

Khi viết, bạn đứng trên vai của những người đi trước, của kiểu mẫu dạy dỗ tác động đến tư tưởng của bạn. Đối với cá nhân tôi, người đó là Tiến sĩ Donald K. Campell, hiệu trưởng danh dự của Trường Thần học Dallas (Dallas Theological Seminary). Tôi thích cách kể chuyện các nhân vật trong Kinh Thánh khi tiếp thu cách ông giải luận về cuộc đời của Đa-ni-ên trong tác phẩm Daniel:Decoder of Dreams (Tạm dịch: Đa-ni-ên: Người Giải Mộng),  tôi mang ơn ông về những hiểu biết sâu sắc của ông. Tôi biết ơn về sự khôn ngoan và tính thực tiễn của ông, vì Campell đã dạy tôi giá trị của việc dùng lời Kinh Thánh và sự hoà quyện với tấm lòng và đời sống của những người mà từng trải của họ được miêu tả qua lời đó. Cho đến hôm nay, gương mẫu của ông tiếp tục tác động đến chức vụ giảng dạy của tôi, tôi rất biết ơn ông về điều đó.

 

 

Lời giới thiệu

Vào thập niên 1960, người dân Mỹ phải chiến đấu trên nhiều chiến trường. Tại Việt Nam, những người lính Mỹ đang chết dần trong một cuộc chiến tranh không được ủng hộ. Ở quê nhà, người dân bị vướng vào hàng loạt những xung đột, mỗi cuộc xung đột đó viết nên những chương mới trong lịch sử nước Mỹ. Có những cuộc xung đột phát sinh khi những người trẻ bắt đầu thách thức mọi thẩm quyền, từ các trường đại học và các chủng viện đến sự dồi dào mà thế hệ cha ông phải khó khăn lắm mới có được đã để lại cho họ. Sự xung đột về chủng tộc xảy ra khi một cộng đồng người Mỹ gốc Phi đã dũng cảm đứng lên để đòi quyền bình đẳng của mình thông qua hiến pháp. Bạo loạn nổi lên từ những cuộc phản kháng trong học đường để biểu tình chống lại những điều khoản chính trị – và thậm chí có những cuộc mưu sát các nhà lãnh đạo chính trị, xã hội. Có những cuộc xung đột về tôn giáo, chẳng hạn các truyền thống lịch sử của những nhà thờ đã có tổ chức lâu đời bị thách thức bởi một phong trào cuồng nhiệt của giới trẻ tự xưng là Jesus People (Tạm dịch Người của Giê-xu).

 

Sự nổi dậy này báo hiệu cho những xung đột xã hội (vụ Watergate[1], Iran-Contra[2], quyền phá thai, phong trào nữ quyền, v.v) đe dọa nghiêm trọng đến sự thống nhất quốc gia. Như chúng ta biết, những Cuộc chiến tranh Văn hóa phân chia các vấn đề đạo đức xã hội thường liên quan đến niềm tin tôn giáo. Những căn nguyên như những quan điểm khác nhau về học thuyết về Đức Chúa Trời, về thế giới, sự công chính, bản tính con người, và sự tự do đã dẫn đến những hướng đi hoàn toàn khác biệt của sống và chết. Những sự khác biệt về nền tảng đức tin ảnh hưởng rõ ràng đến cách sống và cách xã hội được định hình.

“Trong thế giới ngày nay, những khác biệt được nhìn thấy để tạo nên một sự khác biệt. Những niềm tin có những hệ quả.”
– OS GUINESS

Trong quá khứ, có những con người của đức tin đã ẩn mình khỏi xã hội để bước vào những cộng đồng tách biệt khỏi những xung đột về văn hóa (như nhóm Amish, Quaker, một số nhóm Menonite, và một số nhóm khác). Một số khác tự thành lập những nhóm hoạt động chính trị (như nhóm Đạo đức chính yếu, Liên minh Cơ Đốc, hay Liên minh người Mỹ vì những Giá trị Truyền thống). Một số khác nhận thấy mình được kêu gọi để sống cuộc đời như thế, trong tay Đức Chúa Trời, một đời sống có thể tạo nên sự khác biệt—thậm chí không có sự bảo đảm về các quyền công dân, ngay cả sống trong một nền văn hóa ngoại quốc (như vô số giáo sĩ phục vụ ở những nền văn hóa khó khăn bi thảm ở dưới sự đe dọa của chết chóc).

Sự Ảnh Hưởng Của Một Cuộc Đời

Khoảng sáu trăm năm trước khi Đấng Christ giáng sinh, một người đàn ông từ xứ Giu-đa nhìn thấy đất nước của mình bị giày xéo và cuộc đời của mình bị hủy hoại. Cùng với một nhóm những người Do Thái bị phu tù khác, người đàn ông – Đa-ni-ên – bị dẫn ra khỏi quê hương của mình đến một nơi được gọi là Ba-by-lôn—một nền văn hóa cách xa hàng trăm dặm và nhiều ‘năm ánh sáng’ so với Giê-ru-sa-lem. Trong vùng đó, ngay nay được biết đến là Iraq, Đa-ni-ên trải qua thử thách của việc sống với đức tin trong một nền văn hóa nhiệt thành với những khung giá trị và những ưu tiên khác xa một trời một vực so với của ông.

 

Trong thế giới mới đó, Đa-ni-ên và những người bạn của ông đã sống với lòng tin quyết của đức tin, mà điều đó sớm đặt họ không chung đường với những kẻ bắt giam họ. Tuy nhiên, ở giữa thế giới ngoại bang này, Đa-ni-ên trở thành một lãnh đạo chính phủ, phục vụ trong những vị trí được chọn dưới trướng của ba vị vua; là một nhà viết sử, ký thuật lại những điều Đức Chúa Trời đã làm trong thời của ông; và là một tiên tri, nói trước tương lai và rao giảng lẽ thật cho các bậc cầm quyền.

 

Đối với chúng ta, cả những thời đại sau này, Đa-ni-ên luôn là một tấm gương để học hỏi về cách một người sống với đức tin cá nhân trong một nền văn hóa địch thù. Trong những trang sau, chúng ta sẽ nhìn thấy những điều Đức Chúa Trời mặc khải về chính mình Ngài trong sự tiết lộ đầy kịch tính của Đa-ni-ên có thể đem chúng ta chạm đến những mục đích đời đời tuyệt vời của cuộc sống.

 

Chương I:  SỐNG CUỘC ĐỜI KHÁC BIỆT

 

Mở đầu câu chuyện của Đa-ni-ên, Giu-đa đang bị xâm lược đúng như lời tiên tri Giê-rê-mi báo trước. Hơn hai mươi năm, tiên tri Giê-rê-mi đã kêu nài dân Giu-đa quay về với Đức Chúa Trời của họ. Ông cảnh báo rằng họ sẽ bị bắt làm phu tù bởi người Ba-by-lôn và bị lưu đày bảy mươi năm nếu họ không chịu quay về với Ngài (Giê-rê-mi 25:1-11). Vì dân Giu-đa đã bịt tai trước những cảnh báo này, giờ đây Đa-ni-ên viết lại với tư cách người chứng kiến sự xâm chiếm và ông mô tả lại những điều xảy ra lúc đó.

Kế hoạch của nhà vua

Năm thứ ba về đời Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, thì Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đến thành Giê-ru-sa-lem và vây lấy. Chúa phó Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và một phần khí mạnh của nhà Đức Chúa Trời vào tay người. Nê-bu-cát-nết-sa đem khí mạnh ấy về đất Si-nê-a, vào nhà của thần mình, và để trong kho của thần mình. (Đa-ni-ên 1:1-2)

 

Vua Nê-bu-cát-nết-sa của Ba-by-lôn quyết định bắt những người giỏi nhất và thông sáng nhất trong dân phu tù Giu-đa và sử dụng họ để phát triển đế chế của ông. Không giống như A-suê-ru trong sách Ê-xơ-tê, bắt những phụ nữ phu tù cho thú vui của riêng mình, Nê-bu-cát-nết-sa chọn lấy những người trẻ tốt nhất để làm lợi cho đế quốc mình. Ông muốn những người có trí óc và khả năng tốt nhất này sẽ làm cho Ba-by-lôn hùng mạnh hơn. Vì cớ điều này, quá trình chọn lựa của nhà vua đòi hỏi người được chọn phải đáp ứng được những tiêu chuẩn rất cao.

 

Vua truyền cho Át-bê-na, là người làm đầu các hoạn quan mình, lấy trong con cái Y-sơ-ra-ên, trong dòng vua, và trong hàng quan sang, mà đem đến mấy kẻ trai trẻ không có tật nguyền, mặt mày xinh tốt, tập mọi sự khôn ngoan, biết cách trí, đủ sự thông hiểu khoa học, có thể đứng chầu trong cung vua, và dạy cho học thức và tiếng của người Canh-đê (1:3-4).

“Những người có sự can đảm và nhuệ khí luôn có thể đem lại tai hoạ cho những kẻ còn lại.”
– Herman Hesse

Một bảng liệt kê thật ấn tượng! Những chàng trai trẻ này phải có mặt mày xinh tốt, không có một khuyết tật nào về thể chất, phải có sự khôn ngoan và khả năng học hỏi, và họ phải có năng lực nhận thức thật sâu sắc.

 

Vua rất nghiêm túc đối với chương trình này. Các chàng trai sẽ được huấn luyện trong ba năm trước khi họ sẵn sàng để hoàn toàn phục vụ nhà vua, và trong suốt thời gian đó họ được đối xử tử tế.

 

Vua định mỗi ngày ban cho họ một phần đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, hầu cho khi đã nuôi họ như vậy ba năm rồi, thì họ sẽ đứng chầu trước mặt vua. Trong bọn đó có Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria là thuộc về con cái Giu-đa. Người làm đầu hoạn quan đặt tên cho họ: cho Đa-ni-ên tên Bên-tơ-xát-sa; cho Ha-na-nia tên Sa-đơ-rắc; cho Mi-sa-ên tên Mê-sác; và cho A-xa-ria tên A-bết-Nê-gô (1:5-7).

 

Vâng, Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria được thoải mái hơn những phu tù khác ở Ba-by-lôn lúc bấy giờ nhưng tình cảnh của các chàng trai này đã đem đến cho họ những thách thức dưới nhiều hình thức:

 

Môi trường – Ở giữa một xứ và một dân ngoại bang, những chàng trai này đang ở độ tuổi dễ bị ảnh hưởng, phải giữ sự thánh khiết của mình.

 

Phong cách sống – “Đồ ngon vua ăn” không nhất thiết là chế độ ăn có hại, nhưng đây là thức ăn và rượu đã cúng tế cho những thần tượng hư không của Ba-by-lôn. Nếu ăn uống những đồ ăn thức uống như thế là thông đồng với các thần tượng đó.

 

Lòng trung thành – Kế hoạch của nhà vua là một sự tấn công rất tinh vi vào ngay cốt lõi của niềm tin. Bằng cách bắt họ học dưới chân những nhà chiêm tinh của Ba-by-lôn, ông hy vọng sẽ thay đổi được tư tưởng của họ. Bằng cách đổi tên, ông hy vọng thay đổi được sự thờ phượng của họ. Những cái tên Do Thái hướng đến Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Sự thay đổi tên ngụ ý một sự chuyển lòng trung thành hướng về những thần của Ba-by-lôn.

 

Bằng cách thay đổi lối suy nghĩ, ăn uống, và thờ phượng, Nê-bu-cát-nết-sa hy vọng thay đổi cách sống của họ. Họ phản ứng thế nào đối với sự thử thách này?

Phản ứng của Đa-ni-ên

Vả, Đa-ni-ên quyết định trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống, nên cầu xin người làm đầu hoạn quan để đừng bắt mình phải tự làm ô uế. (1:8)

“Trung thành với cam kết khi đối mặt với những nghi ngờ và sợ hãi là một điều rất thuộc linh.”

 

Đa-ni-ên nhận thấy việc ăn đồ ăn của vua làm nảy sinh một vấn đề về nguyên tắc. Ông thấy điều gì về thức ăn khiến ông phản ứng tương tự với điều chúng ta thấy vua Đa-vít đã nói trong Thi Thiên 119:1, “Tôi đã giấu lời Chúa trong lòng tôi, để tôi không phạm tội cùng Chúa.”

 

Đa-ni-ên đã thấy gì? Trước hết, đồ ăn của vua không theo luật Do Thái: nó không được chuẩn bị theo những nguyên tắc dinh dưỡng của người Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, trong cuộc sống lưu đày, việc tuân theo nhiều nguyên tắc luật pháp và những luật lệ trong đền thờ của người Y-sơ-ra-ên đối với các chàng trai là điều bất khả thi. Nhưng thực ra vấn đề quan trọng hơn đối với Đa-ni-ên là ông không muốn làm bất cứ điều gì thể hiện lòng tôn kính các thần tượng của Ba-by-lôn (kiểu mẫu nguyên tắc này cũng được bày tỏ trong những lĩnh vực khác trong cuộc sống lưu đày của ông). Đa-ni-ên xem việc sử dụng đồ ăn và rượu đã dâng cho thần tượng là trái nghịch với lời của Đức Chúa Trời và sự tôn kính Đức Chúa Trời của ông.

 

Hành trình sẽ dễ dàng nếu làm theo câu này: “Khi ở Ba-by-lôn, hãy làm như người Ba-by-lôn làm.” Nhưng mục tiêu của Đa-ni-ên là vâng phục trong bất kỳ môi trường sống nào.

 

Hãy lưu ý rằng Đa-ni-ên: “quyết định trong lòng.” Đây là thái độ then chốt. Nếu sự thánh khiết là ưu tiên hàng đầu, bạn phải có một ước muốn vâng phục Đức Chúa Trời và cam kết thực hiện ước muốn đó. Đa-ni-ên có rất nhiều lựa chọn, nhưng ông đã xác định phải trung thành với Đức Chúa Trời của mình.

 

Một đời sống cam kết với Đức Chúa Trời bắt đầu với chủ định trong lòng, và từ ngay lúc bắt đầu giai đoạn huấn luyện ba năm, Đa-ni-ên đã được thử thách về vấn đề này.

 

Đức Chúa Trời khiến Đa-ni-ên được ơn và thương xót trước mặt người làm đầu hoạn quan. Người làm đầu hoạn quan bảo Đa-ni-ên rằng: Ta sợ vua, là chủ ta, đã chỉ định đồ ăn đồ uống của các ngươi. Lẽ nào vua sẽ thấy mặt mày các ngươi tiều tụy hơn những kẻ trai trẻ khác đồng tuổi với các ngươi, và các ngươi nộp đầu ta cho vua sao? (1:9-10)

 

Lý lẽ của người làm đầu hoạn quan cho thấy trách nhiệm của ông không được khoan dung đến thế. Nếu không tuân theo chỉ thị của vua, phản tác dụng, ông hẳn sẽ mất mạng. Rõ ràng ông đang ở trong tình huống khó khăn. Nhưng Đức Chúa Trời đã dự phòng cho thời điểm này. Ngài khiến Đa-ni-ên được ơn và thương xót trước mặt người làm đầu hoạn quan. Chúng ta không biết chính xác thế nào—có lẽ cách cư xử của Đa-ni-ên với những người quản phu tù—nhưng Đức Chúa Trời đã hành động đằng sau những gì đang diễn ra. Và Đa-ni-ên đã củng cố thêm sự được ơn này bằng sự khéo léo trong giao tiếp, ngay cả khi giữ vững lập trường.

 

Đa-ni-ên nói với người có trách nhiệm phục vụ bữa ăn cho ông rằng:

“Tôi xin ông hãy thử những kẻ tôi tớ ông trong mười ngày, cho chúng tôi chỉ ăn rau uống nước. Sau đó, sẽ nhìn nét mặt chúng tôi với nét mặt những kẻ trai trẻ ăn đồ ăn ngon của vua; rồi ông sẽ làm cho những kẻ tôi tớ ông theo như điều ông đã thấy.” Ham-mên-xa nhậm lời họ xin, và thử họ trong mười ngày. (1:12-14)

“Trong sự giàu có, bạn bè biết chúng ta; trong nghịch cảnh chúng ta biết bạn bè.” – John Churton Collins

Đa-ni-ên đến với người coi sóc mình và đề nghị cho thử mười ngày với chế độ ăn rau. Tôi là người ăn thịt và khoai tây nên điều này với tôi chẳng hấp dẫn gì. Mười ngày ăn rau ư? Không phù hợp với tôi. Tuy nhiên, sâu xa hơn, sự thử nghiệm này đòi hỏi một hình thức tạm dừng tuân theo quy tắc dinh dưỡng. Làm thế nào có được sự khác biệt đáng kể chỉ trong mười ngày? Đó là một sự thử nghiệm nhỏ đối với đức tin để chuẩn bị cho Đa-ni-ên đối diện với những thử nghiệm lớn lao hơn.

 

Sự giải cứu của Đức Chúa Trời

Sự thử nghiệm hữu hiệu và cho thấy Đa-ni-ên cùng những người bạn của ông biết điều mà Y-sơ-ra-ên đã quên—Đức Chúa Trời ban phước cho người vâng phục.

 

Mười ngày ấy qua rồi, thấy mặt họ lại có vẻ xinh tươi đầy đặn hơn mọi kẻ trai trẻ khác đã ăn đồ ngon vua ăn. Vậy, Ham-mên-xa cất phần đồ ăn ngon và rượu của họ, và cho họ ăn rau (1:15-16).

 

Đa-ni-ên và những người bạn của ông đã xuất hiện với diện mạo tốt đẹp hơn những người khác trong cùng chương trình huấn luyện của nhà vua bởi Đức Chúa Trời đã hành động thay họ. Do đó, chế độ ăn rau được phép tiếp tục (mặc dầu, đối với cá nhân tôi, điều đó giống hình phạt hơn phần thưởng!).

 

Vì cam kết sống thánh khiết khởi nguồn từ sự vâng phục Lời Đức Chúa Trời, Đa-ni-ên có một nền tảng vững chắc để sống giữa một nền văn hóa khắc nghiệt.

 

Vả, Đức Chúa Trời ban cho bốn người trai trẻ đó được thông biết tỏ sáng trong mọi thứ học thức và sự khôn ngoan. Đa-ni–ên cũng biết được mọi sự hiện thấy và chiêm bao. Đến kỳ vua định để đem họ đến, thì người làm đầu hoạn quan dắt họ đến trước mặt Nê-bu-cát-nết-sa. Vua nói chuyện cùng họ; và trong hết thảy bọn họ, không thấy ai bằng Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên, và A-xa-ria; vậy họ được đứng chầu trước mặt vua.Vả, khi vua hỏi họ những câu hỏi về mọi sự khôn ngoan sáng suốt, thì thấy họ giỏi hơn gấp mười những đồng bóng và thuật sĩ trong cả nước mình (1:17-20).

 

Kết thúc chương trình huấn luyện, ơn phước của Đức Chúa Trời được chứng thực khi Đa-ni-ên và những người bạn của ông được công bố là “giỏi hơn gấp mười” so với những học giả của Ba-by-lôn.

 

Rất có thể vào thời điểm đó, Đa-ni-ên không quá hai mươi tuổi, nghĩa là khi bắt đầu cuộc thử nghiệm, ông chỉ mới khoảng mười sáu hay mười bảy tuồi. Ở tuổi trẻ đó, ông được biệt riêng để phục vụ và sống một đời sống khác biệt trong một nền văn hóa ngoại bang đầy quyền lực của thế giới cổ đại.

 

[1] Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ.

[2] Vụ bê bối trong đó Mỹ ngấm ngầm bán vũ khí cho Iran, nước đang bị cấm vận vũ khí, để đổi lấy các con tin Mỹ đang bị giữ ở Iran.

Sửa Soạn Cho Chúa Một Dân Sẵn Lòng

Sửa Soạn Cho Chúa Một Dân Sẵn Lòng

 

Chúng ta chuẩn bị gì cho Giáng sinh? Một buổi họp mặt Giáng sinh trong gia đình hay với bạn bè, một bữa tiệc đơn sơ hay thịnh soạn, những món quà ý nghĩa… Tất cả những điều nầy không có gì sai trái, đáng trách cả. Tuy nhiên, là con dân Chúa chúng ta cần chuẩn bị điều gì quan trọng hơn và có ý nghĩa hơn!

 

Chúng ta đang ở trong mùa Giáng sinh mà truyền thống Cơ Đốc gọi là Mùa vọng (Adventus: Lt. sự đến), tức 4 tuần lễ trước lễ Giáng sinh. Thiết tưởng không gì có ý nghĩa cho bằng dành thì giờ tìm kiếm Chúa, dọn lòng đón Chúa theo tinh thần của Giăng Báp-tít. Vì thế, chúng ta cùng nhau suy ngẫm sứ điệp “Sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng” theo Phúc âm Mác 1:1-8.

 

CHỨC VỤ CỦA GIĂNG BÁP-TÍT: NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA (c.1-3)

 

Giăng là Người tiền hô – dọn đường cho Chúa

Ngày xưa khi vua ngự giá viếng thăm một nơi nào thì có người đi dọn đường hô to: “Hoàng thượng ngự giá!” Ngày nay cũng vậy, có một đoàn cảnh sát mặc lễ phục cởi xe mô-tô đi trước thổi còi, để dọn đường cho quan chức cấp cao khi viếng thăm một nơi nào đó.

 

Giăng Báp-tít được Chúa dùng để làm người người dọn đường cho Chúa. Giăng Báp-tít là một nhân vật đặc biệt gắn liền với sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế. Cả bốn sách Phúc âm đều ký thuật về chức vụ của ông. Ông được gọi là người dọn đường, tiền hô của Chúa:

 

“Nầy, ta sai sứ ta đến trước mặt ngươi,
Người sẽ dọn đường cho ngươi
Có tiếng kêu trong đồng vắng rằng:
Hãy dọn đường Chúa,
Ban bằng các nẻo Ngài.”

Sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng: Chuẩn bị tấm lòng để đón Chúa

“Người sẽ làm cho nhiều con trai Y-sơ-ra-ên trở lại cùng Chúa, là Đức Chúa Trời của họ; chính người lại sẽ lấy tâm thần quyền phép Ê-li mà đi trước mặt Chúa, để đem lòng cha trở về con cái, kẻ loạn nghịch đến sự khôn ngoan của người công bình, đặng sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng.” (Lu-ca 1:16-17)  Tác giả Lu-ca đã trích dẫn Ma-la-chi 4:5-6 để mô tả chức vụ của Giăng Báp-tít cũng giống như tiên tri Ê-li, là phục hưng con dân Chúa đang “đi giẹo hai bên” để họ ăn năn “trở lại cùng Chúa”; để đem sự hòa thuận, an vui cho gia đình, và  “sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng.” Đó là tấm lòng khao khát Chúa, tấm lòng ăn năn tội, tấm lòng vâng phục của đức tin. Thiết nghĩ tình trạng thuộc linh của con dân Chúa ngày hôm nay cũng vậy: sa sút thuộc linh, xa cách Chúa, mối quan hệ gia đình cha con, vợ chồng đổ vỡ, bất hòa…Mùa giáng sinh là thời điểm để phục hưng tâm linh, làm mới lại mối quan hệ bị đổ vỡ từ trong gia đình cho đến Hội Thánh. Hãy cầu xin Chúa phục hưng con dân Chúa trong mùa Giáng sinh nầy.

 

GIĂNG BÁP-TÍT ĐÃ SỬA SOẠN MỘT DÂN SẴN LÒNG ĐÓN CHÚA BẰNG CÁCH NÀO? (c.4-8)

Để sửa soạn cho Chúa một dân sẵn lòng, Giăng Báp-tít đã sửa soạn tấm lòng của chính mình và tấm lòng của những người khác, của cả dân tộc ông.

 

Tìm kiếm Chúa

 

“Giăng đã đến trong đồng vắng…” (c.4)

Ngày xưa người ta thường đến đồng vắng để tìm kiếm Chúa, nghe Chúa phán dạy. Môi-se cũng đã vào đồng vắng Ma-đi-an và nghe tiếng Chúa kêu gọi. Ê-li cũng vào đồng vắng, sống bên khe Kê-rít. Phao-lô cũng vào đồng vắng A-ra-bi để nghe Chúa dạy dỗ. Giăng Báp-tít cũng vậy, ông vào đồng vắng xứ Giu-đê, suy ngẫm sách tiên tri Ê-sai để chuẩn bị cho chức vụ mình. Điều này đã trở thành truyền thống tâm linh của Cơ Đốc giáo lâu đời. Giờ tĩnh nguyện, suy ngẫm lời Chúa trong Hội Thánh ngày hôm nay bắt nguồn từ truyền thống Benedictines vào thế kỷ thứ 6 SC của thánh Bê-nê-đít và dần dần trở thành một phương pháp suy ngẫm Kinh Thánh. Cầu nguyện gọi là Lectio Divina (Đọc Lời thánh – Divine reading) với 4 bước: Đọc Lời Chúa, suy ngẫm, cầu nguyện và chiêm ngưỡng Chúa. Mùa Giáng sinh, Mùa vọng là cơ hội để bước vào đồng vắng, tìm kiếm Chúa, suy niệm lời Chúa “Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Giê-hô-va…” (Thi 46:10). Sống giữa xã hội hiện đại ồn ào, bận rộn, hối hả, thật khó mà nghe được tiếng Chúa phán dạy nếu không biệt riêng thì giờ tương giao với Chúa. Đó là một thách thức lớn đối Cơ Đốc nhân hôm nay.

 

Giảng đạo

 

“Vừa làm vừa giảng phép báp-têm ăn năn cho được tha tội” (c.4)

 

Ăn năn trong Tân ước (Metanoia – Metanoeo) là thay đổi tâm trí, ý định trong lòng, hàm ý sự thay đổi từ bên trong, là đời sống đạo đức. Giăng bắt đầu rao giảng sứ điệp về sự ăn năn và làm báp-têm bằng nước để được tha tội. Vì thế người ta gọi ông là Giăng báp-têm. Giăng rao giảng sứ điệp ăn năn thật mạnh mẽ: “Hãy kết quả xứng đáng với sự ăn năn….Cái búa đã kề gốc cây; hễ cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị đốn và chụm.” (Lu-ca 3:8,9). Ông sửa soạn tấm lòng “ban bằng các nẻo Ngài” để người ta tiếp đón Chúa Cứu Thế. Khi Chúa Giê-xu bắt đầu chức vụ, sứ điệp đầu tiên của Ngài cũng nhắc đến sự ăn năn và tin Phúc âm: “Kỳ đã trọn, nước Đức Chúa Trời đã đến gần; các ngươi hãy ăn năn và tin đạo Tin lành” (Mác 1:35).

 

Ăn năn là điều kiện tiên quyết để hưởng Nước Trời. Ăn năn cũng khởi điểm của sự phục hưng đời sống tâm linh. Hãy sửa soạn tấm lòng một cách chân thật trong mùa Giáng sinh bằng sự tra xét mình và thật lòng ăn năn những tội lỗi kín giấu trong đời sống để được Chúa tha thứ và phục hưng. “Hãy xé lòng các ngươi, và đừng xé áo các ngươi.” (Giô-ên 2:13). Một tấm lòng ăn năn thật khi rao giảng Phúc âm sẽ khiến lòng của những người nghe dễ ăn năn và tiếp nhận Chúa.

 

“Người giảng dạy rằng: Có Đấng quyền phép hơn Ta đến sau Ta…” (c.7-8)

 

Giăng đã rao giảng về Chúa Cứu Thế là Đấng quyền năng và đưa người ta đến với Ngài. Ông nói “Đấng đến sau Ta quyền phép hơn Ta…Ngài sẽ làm báp-têm bằng Đức Thánh Linh. (c.8) Giăng giới thiệu Chúa Giê-xu là “Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cất tội lỗi thế gian đi.” (Giăng 1:30). Giăng không đưa người ta đến với ông nhưng đến với Chúa.  Mùa giáng sinh là cơ hội tốt nhất để nói về Chúa Giê-xu cho mọi người. Giảng đạo, rao truyền Tin Lành không phải chỉ là trách nhiệm của Mục sư, Truyền đạo mà Chúa giao cho mỗi Cơ Đốc nhân. Đó là Đại mạng lịnh mà con dân Chúa phải vâng theo. Ước ao Mùa Giáng sinh năm nay là mùa gặt lớn của Hội Thánh chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không thể rao giảng Tin Lành một cách hiệu quả nếu chúng ta không dành thì giờ tìm kiếm Chúa.

 

Sống đạo  

 

Giăng Báp-tít không chỉ giảng đạo mà còn sống đạo nữa. Sống đạo cũng là cách giảng đạo bằng chính đời sống của mình.

 

– Sống công chính, thánh khiết

 

Giăng Báp-tít không chỉ giảng về sự ăn năn tội, mà chính ông đã ăn năn tội và sống một đời sống thánh khiết, công chính. Mác 6:20 mô tả ông là người công chính và thánh thiện. “Vì Hê-rốt sợ Giăng, biết ông là người công bình và thánh”. Ông đã dám can vua Hê-rốt vì vua đã phạm tội loạn luân khi lấy Hê-rô-đia là em dâu làm vợ, và do đó Giăng Báp-tít bị tù và sau đó bị chém đầu. Giăng Báp-tít đã dám sống công chính, ngay thẳng trước mặt Chúa dù phải trả giá bằng chính mạng sống mình. Ông đã nêu gương tốt để chúng ta noi theo.

 

Để trở thành người dọn đường cho Chúa, chúng ta cũng phải có một đời sống tốt đẹp, công chính, thánh khiết như Giăng Báp-tít vậy.

 

– Sống thanh bạch, giản dị

 

Giăng Báp-tít mặc áo lông lạc đà, buộc dây lưng da ngang hông, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông ăn thổ sản ở đồng vắng, đơn sơ, đạm bạc. Đó là nếp sống giản dị, thanh bần của một thánh nhân. Ngược lại với lối sống xa hoa, tội lỗi của vua quan dưới triều đại Hê-rốt thời bấy giờ, Giăng Báp-tít đã bước vào đồng vắng, sống đời sống thánh khiết, thanh bạch, giản dị để làm vinh hiển danh Chúa. Các thánh nhân ngày xưa ở Đông phương cũng thường sống thanh bạch, giản dị như vậy “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá, xuân tắm hồ sen hạ tắm ao…. Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao”. Thiết tưởng Cơ Đốc nhân cần có lối sống thánh khiết, thanh bạch, giản dị, không xa hoa, cầu kỳ như người không có Chúa. Chúng ta không được lãng phí tiền bạc cho những trang sức đắt tiền không cần thiết mà hãy dành tiền bạc Chúa ban cho để góp phần rao giảng Tin Lành, giúp đỡ người nghèo khó thì hơn. Sứ đồ Phi-e-rơ cũng khuyên các phụ nữ Cơ Đốc noi gương các thánh nữ trong Kinh Thánh, sống giản dị, thanh bạch, chú trọng vẻ đẹp cao quí bề trong hơn vẻ hào nhoáng bên ngoài “Chớ tìm kiếm sự trang sức bề ngoài, như gióc tóc, đeo đồ vàng, mặc áo quần lòe loẹt; nhưng hãy tìm kiếm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt Đức Chúa Trời.” (1 Phi 3:3-4)

 

– Sống khiêm nhường, hạ mình

 

Giăng Báp-tít thể hiện nét đẹp nữa của ông qua thái độ khiêm nhường, hạ mình. Mặc dù được dân chúng quí mến tôn trọng, Giăng không quên ông là tôi tớ của Chúa. Ông rao giảng  “Có Đấng quyền phép hơn ta đến sau ta, ta không đáng cúi xuống mở dây giày cho Ngài.” (c.7), “Ngài phải dấy lên, ta phải hạ xuống” (Giăng 3:30). Giăng không chỉ rao giảng về Chúa Giê-xu mà cũng sống khiêm nhường, hạ mình giống như Chúa Giê-xu. Người dọn đường cho Chúa, rao giảng Tin Lành cũng phải có một nếp sống khiêm nhu, tôn cao Chúa như Giăng Báp-tít. Mỗi chúng ta phải coi chừng cái tôi cứng cỏi, kiêu ngạo vốn có sẵn trong mỗi chúng ta. Hãy nhờ ơn Chúa sống khiêm nhường trong cách nói năng, hành xử với mọi người theo luật vàng mà Chúa dạy “Chớ làm sự chi vì lòng tranh cạnh hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường coi người khác như tôn trọng hơn mình.” (Phi-líp 2:3).

 

Một lần nữa, mùa Giáng sinh lại trở về. Hãy noi gương Giăng Báp-tít, trở nên những người dọn đường cho Chúa; hãy sửa soạn tấm lòng của chính mình và của người khác để đón Chúa. Hãy dành thì giờ yên tịnh tìm kiếm Chúa và suy ngẫm Lời Chúa, giảng đạo, và sống đạo như Giăng Báp-tít để làm vinh hiển danh Chúa. Nếu ngôi sao lạ dẫn đường các đạo sĩ năm xưa đến tôn thờ Chúa Giáng sinh thế nào, thì chúng ta ngày nay cũng hãy trở nên những vì sao sáng giữa thế giới tối tăm tội lỗi để đưa dắt nhiều người đến với Chúa “Anh em sống trong sạch tinh khiết như con cái toàn hảo của Thượng Đế giữa thế giới gian ác băng hoại, đề cao Đạo sống, chiếu rọi như các vì sao sáng giữa bầu trời tối tăm.” [HĐ] (Phi-líp 2:14).

Niềm Tin Sống Động

Niềm Tin Sống Động

 

Trong những ngày cuối sống với các môn đệ, trước khi đi vào sự thống khổ và sống lại khải hoàn, Chúa Giê-xu đã tâm sự với các môn đệ khi Ngài thấy họ bối rối, lúc họ biết Ngài sắp lìa họ sau ba năm rưỡi sống với họ, ở giữa họ rất gần gũi, thân mật:

 

 

“Nhưng Ta đã nói những điều này cho các con để khi đến giờ của họ, các con nhớ lại rằng Ta đã nói cho các con rồi. Ta không nói điều này với các con ngay từ đầu, vì Ta đang ở với các con. Nhưng bây giờ Ta sắp về với Đấng đã sai Ta đến, và không ai trong các con hỏi Ta: ‘Thầy đi đâu?’  Nhưng vì Ta đã nói những điều này cho các con nên lòng các con đầy đau buồn. Dù vậy, Ta nói thật với các con: Ta đi là ích lợi cho các con. Vì nếu Ta không đi thì Đấng An Ủi sẽ không đến với các con. Nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ sai Ngài đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ cáo trách thế gian về tội lỗi, về sự công chính và về sự phán xét. Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; về sự công chính, vì Ta đi đến với Cha, và các con không còn thấy Ta nữa; về sự phán xét, vì kẻ cai trị thế gian này đã bị phán xét. Ta còn nhiều điều để nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể hiểu nổi. Khi Thần Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn các con vào mọi chân lý; vì Ngài không tự mình nói, nhưng sẽ nói những gì mình nghe, và công bố cho các con những gì sẽ đến. Ngài sẽ tôn vinh Ta, vì Ngài sẽ lấy những gì thuộc về Ta mà công bố cho các con. Tất cả những gì Cha có là của Ta, vậy nên Ta nói rằng Ngài sẽ lấy những gì thuộc về Ta mà công bố cho các con” (Giăng 16:4-15 BTTHĐ).

 

Sứ điệp này không nhằm nói đến biến cố Thập Tự Giá mà họ sắp chứng kiến sự Thống Khổ Chúa Giê-xu chịu khi Ngài bị bắt, bị đánh đập, bị xử tử cách sỉ nhục trên cây thập tự. Nhưng Chúa Giê-xu muốn nói đến sự Thăng Thiên, tức Chúa Giê-xu về trời với Đức Chúa Cha và sự Giáng Lâm của Chúa Thánh Linh trong lễ Ngũ Tuần. Hai sự kiện nầy liên hệ đến hai tín lý rất quan trọng đối với con dân Chúa, tuy nhiên, nhiều giáo hội, ngay cả chính chúng ta cũng chưa chú ý đúng mức. Trong bài này, chúng ta cùng suy ngẫm đến vài khía cạnh thần học và niềm tin sống động trong cuộc sống thực tế đời thường này.

 

Thứ nhất, Ngài Thăng Thiên, Ngồi Bên Hữu Đức Chúa Trời

Trong bài Tín Điều Các Sứ Đồ chúng ta thường đọc đã khẳng định tiểu đề chúng ta vừa nêu. Sử gia Lu-ca đã ký thuật rất rõ ràng trong sách Lu-ca và Công Vụ Các Sứ Đồ: Sau đó, Ngài dẫn các môn đồ đến gần làng Bê-tha-ni và giơ tay lên ban phước cho họ. Đang khi ban phước, Ngài lìa các môn đồ và được đem lên trời. Các môn đồ thờ phượng Ngài, rồi trở về thành Giê-ru-sa-lem với niềm vui tràn ngập. Họ tiếp tục ở trong đền thờ, chúc tụng Đức Chúa Trời (Lu-ca 24:50-53 BTTHĐ). Sau khi phán những điều ấy xong, Ngài được cất lên trong lúc các môn đồ đang nhìn xem Ngài. Có một đám mây tiếp Ngài khuất đi khỏi mắt họ. Đang khi họ chăm chú nhìn lên trời lúc Ngài ngự lên, kìa, có hai người nam mặc áo trắng đứng gần họ 11 và nói: “Hỡi người Ga-li-lê, sao các ông cứ đứng nhìn lên trời như thế? Đức Chúa Giê-xu này đã được cất lên trời khỏi các ông, cũng sẽ trở lại như cách các ông đã thấy Ngài lên trời vậy” (Công Vụ 1:9-11 BTTHĐ).

 

(1) Sự Thăng Thiên chứng tỏ Chúa Giê-xu mà chúng ta tin thật sự là Con Đức Chúa Trời. Mọi thẩm quyền đều thuộc về Ngài, như Sứ đồ Ma-thi-ơ đã ký thuật: “Mười một môn đồ đi đến miền Ga-li-lê, tới ngọn núi mà Đức Chúa Giê-xu đã chỉ cho họ. Khi thấy Ngài thì họ thờ lạy Ngài. Nhưng còn một vài người nghi ngờ. Đức Chúa Giê-xu đến và phán với họ rằng: “Tất cả thẩm quyền trên trời dưới đất đã giao cho Ta. Vậy, hãy đi khiến muôn dân trở nên môn đồ Ta, hãy nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh làm báp-têm cho họ và dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con. Và này, Ta luôn ở với các con cho đến tận thế” (Ma-thi-ơ 28:16-20 BTTHĐ).

 

(2) Sứ đồ Ma-thi-ơ cũng công khai nhắc nhở từng con dân Chúa Đại Mệnh lệnh “khiến muôn dân trở nên môn đệ Chúa.” Chúng ta không những làm chứng nhân sống động của Chúa Phục Sinh và Thăng Thiên để chia sẻ niềm tin, để giới thiệu Chúa, mà còn giúp từng người đã tin Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của đời sống họ trở nên môn đệ thật của Ngài. Mệnh lệnh này nhắc nhở chúng ta đến sứ mệnh và vinh dự thiêng liêng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giúp người mới tin Chúa biết “vâng giữ mọi điều Chúa phán dạy”. Để rồi chính những người mới đó lớn lên trong niềm tin, trưởng thành trong Chúa, mạnh dạn chia sẻ niềm tin, môn đệ hóa người họ mới đưa đến với Chúa. Chúa Cứu Thế dấu yêu biết rõ sự yếu đuối, ngại ngùng của con dân Ngài nên đã khẳng định Ngài “sẽ ở luôn với chúng ta cho đến tận thế.”. Chúng ta không phải lo âu, ngờ vực vì Ngài luôn ở bên cạnh, ban năng quyền, thêm sức cho chúng ta.

 

(3) Chúa Giê-xu thăng thiên, ngồi bên hữu Đức Chúa Trời, cầu thay cho chúng ta: Hỡi con cái bé mọn ta, ta viết cho các con những điều này, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Giê-xu Christ, tức là Đấng công bình (1 Giăng 2:1 BTT). Ai sẽ là người kết án họ khi mà Đấng Christ Giê-xu là Đấng đã chết và cũng đã sống lại, Đấng đang ngồi bên phải Đức Chúa Trời và cầu thay cho chúng ta? (Rô-ma 8:34 BTTHĐ).

 

(4) Con dân Chúa được khích lệ hãy mạnh dạn đến với Chúa Cứu Thế Giê-xu, siêng năng cầu nguyện với Ngài. Thư Hê-bơ-rơ ân cần nhắc nhở từng con dân Chúa: “Do đó, vì chúng ta có một thầy tế lễ thượng phẩm vĩ đại đã vượt qua các tầng trời là Đức Chúa Giê-xu, Con Đức Chúa Trời, nên hãy giữ vững những điều chúng ta xưng nhận. Vì chúng ta không có một thầy tế lễ thượng phẩm chẳng có thể cảm thông sự yếu đuối chúng ta, nhưng có một thầy tế lễ bị cám dỗ đủ mọi cách như chúng ta, song chẳng phạm tội. Vậy, chúng ta hãy vững lòng đến gần ngôi ân điển, để nhận được sự thương xót và tìm được ân điển giúp đỡ chúng ta kịp thời (Hê-bơ-rơ 4:14-16 BTTHĐ).

 

Hơn thế nữa, Chúa Thánh Linh, Đấng An Ủi mà Chúa Giê-xu hứa ban cho chúng ta (Giăng 16:7) luôn quan phòng, nâng đỡ, an ủi, và cầu thay cho chúng ta. Cũng vậy, Thánh Linh giúp đỡ sự yếu đuối của chúng ta, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện điều gì cho đúng, nhưng chính Thánh Linh dùng những sự thở than không thể diễn tả bằng lời mà cầu thay cho chúng ta (Rô-ma 8:26 BTTHĐ).

 

Thứ hai, Chúa Thánh Linh Giáng Lâm trong Lễ Ngũ Tuần

Trong sứ điệp đặc biệt báo trước cho các môn đệ về sự Thăng Thiên của chính Chúa Giê-xu trong Phúc Âm Giăng chương 16, Chúa Cứu Thế cũng hứa ban Chúa Thánh Linh cho con dân Ngài khi Chúa đã về trời với Đức Chúa Cha. Điều đó đã xảy ra trong lễ Ngũ Tuần và sử gia Lu-ca đã ký thuật.

 

“Đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ nhóm họp tại một chỗ. Thình lình, có tiếng động từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy những lưỡi như lưỡi lửa xuất hiện, tản ra và đậu trên mỗi người trong họ. Tất cả đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bắt đầu nói các ngôn ngữ khác, theo như Thánh Linh cho họ nói (Công Vụ 2:1-4 BTTHĐ).

 

Chúa Giê-xu về trời, Ngài mới ban Chúa Thánh Linh cho từng con dân Ngài. Chính Chúa Thánh Linh (1) giúp con dân Chúa và thế gian biết rõ tội lỗi, sự cứu chuộc, sự công chính, và sự phán xét (Giăng 16: 8-10); (2) giúp con dân Chúa biết chân lý, hiểu Lời Chúa dạy cho con dân Ngài (Giăng 16:13); (3) biết rõ hơn về Chúa Giê-xu và tôn vinh Ngài (Giăng 16:13, 14); (4) ngự, sống trong từng con dân Chúa (Giăng 14:16-20); và (5) ban ân tứ cho con dân Chúa để phục vụ Ngài (1 Cô-rinh-tô 12:9, 11).

 

Thứ ba, Chúa Giê-xu Sẽ Trở Lại Đón Con Dân Ngài

Sử gia Lu-ca ghi rõ lời thiên sứ nói với những người chứng kiến biến cố lịch sử Chúa Giê-xu Thăng Thiên rằng Chúa Giê-xu sẽ trở lại như cách họ đã thấy Ngài cất lên (Công Vụ 1:11). Trước đó, Chúa Giê-xu cũng từng dặn dò các môn đệ: “Lòng các con đừng bối rối. Hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin Ta nữa. Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở; nếu không phải vậy, sao Ta lại nói với các con rằng Ta đi chuẩn bị cho các con một chỗ? Khi Ta đi và đã chuẩn bị chỗ cho các con rồi, Ta sẽ trở lại đem các con đi với Ta, để Ta ở đâu thì các con cũng ở đó. Các con biết Ta đi đâu, và biết đường đi nữa” (Giăng 14:1-4 BTTHĐ).

 

Chúa Giê-xu sống lại khải hoàn trong Chúa nhật Phục Sinh. Bốn mươi ngày sau, Chúa Cứu Thế Giê-xu Thăng Thiên, về với Chúa Cha. Mười ngày sau đó, Chúa Thánh Linh giáng lâm trong lễ Ngũ Tuần. Những thời điểm rõ ràng nhắc từng con dân Chúa nắm vững rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu đã về trời, ngồi bên hữu Chúa Cha, đang sống, đang tể trị trên cả hoàn vũ này. Những lúc mệt mỏi, nao núng, Chúa Giê-xu mời bạn mạnh dạn đến với chính Chúa và Lời Ngài. Chúa muốn bạn kiên tâm cầu nguyện, để kinh nghiệm Đấng Sống Lại và Chúa Thánh Linh đang ngự trong bạn để từng ngày tháng tới trở nên thỏa vui, hạnh phúc vì niềm tin sống động không dựa trên những gì hảo huyền, mà trên Đấng Sống. Chúa Phục Sinh, cũng là Đấng Thăng Thiên đã ban Chúa Thánh Linh cho bạn. Bạn có theo gương các môn đệ ngày xưa, theo chân Hội Thánh Đầu Tiên hiệp một trong sự thờ phượng, chúc tôn Chúa Hằng Hữu để cùng sống đạo, cầu thay, nhiệt tình sử dụng ân tứ Chúa ban, được đầy dẫy Chúa Thánh Linh, và mạnh dạn chia sẻ Phúc Âm cứu rỗi, môn đệ hóa nhiều người ngay lúc này chăng?

Giàu Có Trong Ân Điển Của Đức Chúa Trời

Giàu Có Trong Ân Điển Của Đức Chúa Trời

 

 

 

 

 

Kinh Thánh: I Côr 1.4-9 (Bản hiệu đính)

“Tôi luôn vì anh em cảm tạ Đức Chúa Trời, bởi ân điển Ngài đã ban cho anh em trong Đấng Cơ Đốc Giê-xu, vì trong Ngài anh em được phong phú về mọi phương diện, cả lời nói lẫn tri thức – cả lời làm chứng về Đấng Cơ Đốc cũng đã được xác lập trong anh em – để anh em không thiếu bất cứ ân tứ thuộc linh nào, trong lúc chờ đợi sự hiện ra của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc. Đức Chúa Trời sẽ giữ anh em bền vững cho đến cuối cùng, để không bị khiển trách trong ngày của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín; Ngài đã gọi anh em vào sự tương giao với Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc, Chúa chúng ta.”

 

 

Trong những ngày đầu năm, người Việt chúng ta ai nấy đều mong muốn và cầu chúc cho nhau rằng: ngũ phúc lâm môn (Phú, Quý, Thọ, Khương, Ninh). Trong các buổi sinh nhật, khai trương chúng ta chúc cho bình an, vui vẻ, thịnh vượng… đó là những nét văn hóa hướng tâm về sự giàu có.

 

Trong thực tế những lời chúc đó không thể trở thành hiện thực, bởi chúng ta chỉ là con người và những lời cầu chúc chỉ nằm ở những ước mơ, còn những phước lành kia hay giàu có vốn được lưu xuất từ Đức Chúa Trời, và quyền định đoạt vẫn thuộc về Ngài.

 

Tuy nhiên, trong danh Chúa Giê-xu, chúng ta chắc chắn trải nghiệm được giàu có nhiều điều trong ân điển của Chúa hằng hữu. Lời Chúa ở I Côr 1:4-9 cung cấp cho chúng ta những điều giàu có ấy:

 

1. CHÚNG TA ĐƯỢC CUNG CẤP MỌI NHU CẦU. (c 4-7)   

“Tôi hằng vì anh em tạ ơn Đức Chúa Trời, bởi cớ anh em đã được Đức Chúa Trời ban ơn trong Đức Chúa Jêsus Christ; vì chưng anh em đã được dư dật về mọi điều ban cho, cả lời nói và sự hiểu biết, như lời chứng về Đấng Christ đã được vững bền ở giữa anh em. Anh em đang trông đợi kỳ Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta hiện đến, cũng chẳng thiếu một ơn nào.”

 

       a. Mọi điều được ban cho bởi Đức Chúa Trời.

Từ “ơn” trong câu 4 có nghĩa là “ân điển”. Ân điển là sự ban cho diệu kỳ của Đức Chúa Trời. Ân điển của Đức Chúa Trời được bày tỏ qua ít nữa là 2 dạng:

– Cung ứng sự cứu rỗi trong Đức Chúa Giê-xu Christ.

Quyền năng và những mầu nhiệm của ơn cứu rỗi chắc hẳn mỗi người Cơ Đốc đã từng nếm trải và đang tiếp tục rờ đụng điều đó trong danh phận là con cái của Chúa.

– Ban cho các ân tứ thuộc linh.

Từ “ơn” trong câu 7 dịch chính xác là “ân tứ thuộc linh” hiểu cách nôm na là “một tài năng đặc biệt được ban cho dù người nhận không có gì xứng đáng để được nhận”. Những ban cho các ân tứ đó được thể hiện qua bất cứ sự trang bị nào cần cho đời sống (sự sống, năng lực, tài năng, tiền bạc…) đều được từ Đức Chúa Trời ban cho (1), hay những tài năng đặc biệt một con người có được đều được ban tặng bởi Đức Thánh Linh. Ngay phân đoạn Thánh Kinh nầy nhấn mạnh đến hai ân tứ quan trọng mà người Cô-rinh-tô chú trọng: Ân tứ lời nói và tri thức. Phao-lô muốn xác nhận rằng cả đến những khả năng, tài trí đó cũng được Chúa ban cho bởi ân điển của Ngài.

 

b. Mức độ cung cấp bởi Đức Chúa Trời.

Từ liệu “dư dật” có nghĩa là “người giàu có, phong phú”. Phạm vi của sự giàu có nầy được thể hiện trong mọi sự. Câu 5 và 7 chép: “5 vì trong Ngài anh em được phong phú về mọi phương diện,… 7 Để không thiếu bất cứ ân tứ thuộc linh nào, trong lúc chờ đợi sự hiện ra của Chúa chúng ta là Đức Chúa Giê-xu Cơ Đốc”. Ân điển của Chúa cung cấp cho cách phong phú, không thiếu thốn điều gì, trong khi người thuộc về Ngài còn đang sống động trên đất chờ đợi ngày Chúa Giê-xu tái lâm.

 

Những tiền nhân chúng ta đã kinh nghiệm trong cuộc sống cho rằng: “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời” để vừa bày tỏ sự an ủi một ai đó trong cảnh nghèo khốn, đồng thời cũng bày tỏ ra rằng sự giàu có, thịnh đạt của con người không tồn tại mãi mãi, nó hiện hữu và có thể mất tất cả vào ngày mai, ngày mốt. Cơ Đốc nhân thì hoàn toàn khác, sự giàu có trong ân điển của Chúa không chỉ hướng về tiền bạc, nhưng trên tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống: Quyền năng của sự cứu rỗi, sự biến đổi nên mới và kinh nghiệm nên mới mỗi ngày càng hơn, sự bình an, vui tươi, hy vọng và cả đến những vinh hiển, thành công trong cuộc sống. Có thể chúng ta không giàu có về tiền bạc, nhưng những điều khác không ai có thể sánh bằng chúng ta bởi sự ban cho lớn lao của Chúa. Cho nên, một ai đó được dư dật trong lãnh vực nầy hay lãnh vực khác trong cuộc sống, người ấy được Đức Chúa Trời ban cho – người ấy được Chúa làm cho giàu có.

 

Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chúng ta được dư dật bởi Ngài! Chúng ta được chính Chúa làm cho giàu có. Không một phương diện nào thuộc đời sống quý vị mà bị bỏ quên không bị đụng đến, bởi Đấng mà quý vị đang thờ phượng như Thi 23:1 (theo một bản dịch khác) đã công bố: Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, Đấng cung cấp mọi điều mà tôi cần đến.

 

 

2. CHÚNG TA ĐƯỢC BẢO ĐẢM ĐỜI SỐNG CÁCH TOÀN HẢO. (c 8)

“Ngài sẽ khiến anh em được vững bền đến cuối cùng, để khỏi bị quở trách trong ngày của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta.”

 

Từ liệu: – “vững bền” có nghĩa là “chắc chắn” hay “ổn định”. – “không bị khiển trách” có thể dịch là “không chỗ trách được”, tại đây nhóm từ nầy có hàm ý rằng không có một sự cố nào xảy đến quá lớn lao vượt cả tầm bảo toàn của Chúa, khiến tín hữu tại Cô-rinh-tô bị khó khăn, khốn đốn đến nỗi họ không thể chịu được, phạm tội khiến phải bị trách phạt trong ngày Đức Chúa Giê-xu Christ.

 

Chính Đức Chúa Trời sẽ bảo toàn cho dân sự của ngài để họ luôn vững chải, mà dạn dĩ trình diện mình trước Chúa Giê-xu trong ngày Chúa phán xét cả thế giới.

 

Con người đang tìm kiếm sự bảo đảm cho bản thân và gởi gắm mọi niềm tin vào những con người, vào tình cảm, công danh sự nghiệp hay vào những hãng bảo hiểm, những ngân hàng…

 

Tuy nhiên, không ít người đã vỡ mộng và đau đớn khốn khổ vì những nơi mình đặt niềm hy vọng. Điển hình, trong trung tuần tháng 2 năm 2009, hàng trăm ngàn người ở Hoa Kỳ và vùng Nam Mỹ đã tin cậy nơi uy tín nhiều chục năm của hệ thống tài chính Stanford, có mặt ở Hoa kỳ và nhiều nước khác trong khu vực. Thế nhưng, vào ngày nói trên hệ thống nầy đã bị phát hiện là không thật như những tuyên bố hay quảng cáo, hệ thống nầy đã lường gạt những người tin cậy sự bảo toàn của nó với con số lên đến 8 tỷ Mỹ Kim. Hàng chục ngàn người trong nhiều nơi bị đỗ vỡ niềm tin, họ xếp hàng ở các chi nhánh ngân hàng Stanford để rút lại tiền của mình mà không thể rút được.

 

Trong khi đó Allen Stanford, tổng giám đốc của hệ thống nầy, trốn mất biệt. Ngày 22 tháng 2 năm 2009, cảnh sát đã bắt gặp được Stanford đang lái xe du hí, thoải mái với người tình trẻ đẹp của mình trên một đường phố tiểu bang Virginia Hoa kỳ. Mới đây giới chức hữu quan định sẽ kết án Allen Stanford 250 năm tù vì tội lừa gạt sự tín nhiệm của người khác (2). Quả thật, không một con người nào, một nơi nào bảo đảm cho con người cách bền vững và hoàn hảo, nhưng trong ân điển của Đức Chúa Trời thì rất khác biệt, I Côr 10.13 chép: “Những sự cám dỗ đến cho anh em, chẳng có sự nào quá sức loài người. Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài chẳng hề cho anh em bị cám dỗ quá sức mình đâu; nhưng trong sự cám dỗ, Ngài cũng mở đàng cho ra khỏi, để anh em có thể chịu được”. Được quyền năng bảo đảm toàn hảo của Chúa bao phủ đời sống đồng nghĩa với người đó được sống an bình, phước hạnh và giàu có trong Đức Chúa Trời.

 

 

3. CHÚNG TA ĐƯỢC TƯƠNG GIAO VỚI CHÚA JESUS CHRIST. (c 9)

“Đức Chúa Trời là thành tín, Ngài đã gọi anh em được thông công với Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.”

 

Từ “thông công” còn được hiểu là liên hệ mật thiết (tương giao). Một người tín hữu của Chúa có một mối tương giao với chính Đức Chúa Giê-xu Christ nhờ vào sự kêu gọi và vun đắp rất rõ ràng của Đức Chúa Trời thành tín. Những liên hệ tương giao của một người Cơ Đốc với Chúa Giê-xu là:

a. Trở nên con cái Đức Chúa Trời (Giăng 1:12, Rô-ma 8:15-17), được gọi Ngài là Aba – cha yêu dấu.

b. Trở nên một phần trong thân thể của Đấng Christ.

c. Được tương giao với Chúa Giê-xu, mối tương giao đó tồn tại cho đến đời đời.

d. Được thừa kế cơ nghiệp trong Chúa Giê-xu Christ (Rôm 8.17).

 

Mọi mối liên hệ mật thiết tại trần gian đều sẽ vơi cạn và phôi phai; như vụ việc của cô Vũ Thị Kim Anh. Sau nhiều năm yêu đương, mặn nồng với một doanh nhân (Nguyễn Tiến Chính). Nhưng giờ đây tình yêu mật thiết đó không còn nữa, nên sau khi người đàn ông nầy điện thoại gây áp lực để hẹn hò, rạng sáng ngày 14/2/09 (ngày Valentine) Chính đã đưa xe đến rước Kim Anh đi chơi, đồng thời anh Chính muốn bày tỏ những động tác âu yếm với cô như những ngày trước đây, cô Kim Anh đã từ chối, để chống lại điều đó cô đã dùng con dao, cắt cổ anh Chính đến đứt cuống họng, đóng cửa xe và bỏ đi, mặc cho anh bị máu chảy mà không thể kêu cứu được, dẫn đến tử vong ngay trên chiếc xe Lexus của mình sau khi cố lái xe chạy được 800m (3).

 

Mối liên hệ mật thiết của con người dễ dàng vơi cạn, đổi thay là thế, nhưng mối tương giao với Chúa có tính đời đời và thiêng liêng cao đẹp. Chính sự tương giao đầy bảo đảm đó khiến người Cơ Đốc: – Sống trong tình yêu của Đức Chúa Cha không bao giờ vơi cạn. – Sống trong mối liên hệ với Chúa có tính hữu cơ (chi thể của một thân thể), sự sống của Chúa được truyền đến sự sống của chúng ta. – Nhận hưởng mọi cơ nghiệp Chúa dành cho ngay hôm nay và tiếp tục kế nghiệp trong tương lai cách vững chắc. Mỗi Cơ Đốc nhân luôn sống vui, sống trong tình yêu thân thiết của Đức Chúa Giê-xu đáng tin cậy và không bao giờ đổi thay (Hêb13.8).

 

Sự giàu có của người theo Chúa khác biệt với thang giá trị hay cái nhìn của con người, Sứ đồ Phao-lô đã từng mô tả trong II Côr 6:10: “Ngó như buồn rầu, mà thường được vui mừng; ngó như nghèo ngặt, mà thật làm cho nhiều người được giàu có; ngó như không có gì cả, mà có đủ mọi sự!”

 

Tất cả những điều kỳ diệu Chúa cung ứng đã đem lại cho người Cơ Đốc sự cao trọng, giá trị trước Chúa và trước con người trong sự ban cho dư dật của ân điển ngài.

 

Quý vị có đang sống trong tư cách là người giàu có bởi ân điển Đức Chúa Trời ban cho không ?

 

Hãy nhìn biết và sống trong sự dư dật, giàu có trong Đức Chúa Trời dành cho để nếm trải hạnh phúc và tươi vui mỗi ngày vì ai nấy đều được chính Ngài:

Cung cấp cho mọi nhu cầu.

Bảo đảm đời sống cách toàn hảo.

Ban cho mối tương giao mật thiết với Đức Chúa Giê-xu Christ.

Nỗi Trăn Trở Của Người Công Chính

Nỗi Trăn Trở Của Người Công Chính

 

 

 

Có điều gì trong đời sống cá nhân gia đình hay những vấn đề trong xã hội khiến quí vị trăn trở, trằn trọc nhiều đêm không ngủ được không? Riêng đối với tôi trong những tháng ngày gần đây tôi thực sự trăn trở về những vấn đề đang xảy ra trong xã hội hiện đại và trong Hội Thánh Chúa trên thế giới nói chung, nhất là khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ đã hợp thức hóa hôn nhân đồng tính vào ngày 26/06/2015 vừa qua và được tổng thống Mỹ Barack Obama ca ngợi như là một chiến thắng của nước Mỹ (tôi suy nghĩ nước Mỹ đang chiến thắng hay thất bại đây!). Thiết nghĩ không phải riêng tôi mà tất cả những Cơ Đốc nhân tin kính trên khắp thế giới cũng đang ở trong tâm trạng trăn trở băn khoăn, suy nghĩ như tôi. Thật ra vấn đề đồng tính luyện ái đã trở nên một vấn đề nhức nhối, trăn trở trong giới Cơ Đốc giáo trong nhiều thập kỷ qua; cũng đã có biết bao nhiêu những cuộc bàn thảo tranh luận, ủng hộ, chống đối của các nhà thần học, khoa học, chuyên gia về vấn đề ngày càng khó hiểu này, và đáng buồn thay, cuối cùng nhiều Giáo Hội Cơ Đốc ở Âu Mỹ đã bỏ phiếu chấp nhận hôn nhân đồng tính dựa theo đa số, là điều về cơ bản trái ngược với sự dạy dỗ của Kinh Thánh.

 

Cảm ơn Chúa, Ngài biết nỗi trăn trở, ưu tư của người công chính khi sống trong một thế giới sa ngã bởi tội lỗi cho nên Ngài đã ban Lời của Ngài qua Đa-vít trong Thi Thiên 11:3 để an ủi khích lệ chúng ta. “Khi các nền bị phá đổ thì người công bình (công chính) sẽ làm sao?” Chúng ta không hiểu hết điều gì xảy ra trong thời đại của tác giả khiến tác giả trăn trở, tuy nhiên chúng ta tìm được sự đồng cảm của những người công chính, tin kính Chúa như Đa-vít.

 

 

Lý do trăn trở

 

Thật vậy, chúng ta cũng đang sống trong một thời đại có nhiều vấn đề khiến những người công chính, tin kính phải trăn trở. Đó là tình trạng đạo đức suy đồi, điều ác, kẻ ác lộng hành khắp nơi. Từ đạo đức cá nhân đến đạo đức gia đình, xã hội đang sa sút trầm trọng và điều này đã làm ứng nghiệm lời tiên tri trong Kinh Thánh nói về tình trạng đạo đức băng hoại của thời kỳ cuối cùng: “Hãy biết rằng trong ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Đức Chúa Trời..” (2 Tim. 3:1-4). Trong một xã hội như thế thì người công chính bị hà hiếp, bắt bớ, thù ghét và dường như không còn đất sống phải “trốn lên núi.” (Thi 11:1b). Điều mà Đa-vít cũng như chúng ta hôm nay trăn trở nhất chính là các nền tảng bị phá đổ, tức là những nền tảng cơ bản tốt đẹp của xã hội, những giá trị thiêng liêng của con người nói chung đang ngày càng bị bào mòn và bị phá đổ. Trước hết là nền tảng đạo đức, tâm linh bị phá đổ trầm trọng, nhất là ở những quốc gia Cơ Đốc vốn đặt nền tảng trên những nguyên tắc, giá trị của Kinh Thánh, mà tiêu biểu là nước Mỹ. Người ta đã cố tình loại bỏ Mười điều răn ra khỏi trường học và các công sở từ nhiều năm nay. Năm 2003, ông Roy Moore, chánh thẩm phán Tối Cao Pháp Viện tiểu bang Alabama đã bị cách chức vì ông dám treo bảng Mười răn trong văn phòng của ông. Rồi nạn tình dục bừa bãi, nạn phá thai, ly dị ngày càng phổ biến. Không những ở Mỹ thôi mà ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới cũng đang xảy ra tình trạng tương tự. Đáng lưu ý ở Việt Nam chúng ta là tình trạng đạo đức xã hội băng hoại, đạo đức kinh doanh nghề nghiệp sa sút trầm trọng: Cướp bóc, giết người, lừa đảo, bất công, tham nhũng, hối lộ, mãi dâm, ma túy, làm ăn vô lương tâm, vô đạo đức gây hại sức khỏe cho người tiêu dùng v.v…

 

Điều mà những người Cơ Đốc tin kính chúng ta bức xúc trăn trở nhất hiện nay là nền tảng hôn nhân, gia đình bị phá đổ, lối sống trái với Kinh Thánh, ngược lại với tự nhiên như đồng tính luyến ái, nhất là hôn nhân đồng tính quái gở đã được công khai chấp nhận và được luật pháp bảo vệ. Không phải chỉ ở Mỹ và các nước Tây âu thôi mà tôi tin rằng trong tương lai không xa, nó cũng được các nước khác trong đó Việt Nam bắt chước theo. Tất nhiên những người ủng hộ đồng tính luyến ái và hôn nhân đồng tính có những lý do để bênh vực biện hộ: nào là họ sinh ra tự nhiên (born, being) là như thế; đồng tính là một phần trong ý muốn của Chúa; luật lệ trong Kinh Thánh ngày xưa đã lỗi thời không còn thích hợp với văn hóa, xã hội hiện đại; họ còn phân biệt hai loại đồng tính: đồng tính tự nhiên và đồng tính bất thường; và hôn nhân là dựa trên tình yêu chứ không dựa trên giới tính v.v… Gần đây, tôi có nghe nói một thứ trưởng Bộ Y tế Việt Nam cũng đã tỏ ý ủng hộ hôn nhân đồng tính vì cho đó là tôn trọng quyền con người.

GIÀU CÓ NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI (P1)

GIÀU CÓ NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI (P1)

 

Giàu – đó là một từ rất ngắn rất gọn mà hầu hết mọi người đều mơ ước.


Tôi vẫn còn nhớ lần đầu tiên được xem vở nhạc kịch nổi tiếng Mamma Mia, tôi đã ngẩn người khi nghe câu hát này: “Tiền! Tiền! Tiền! Ôi mọi thứ mà tôi có thể làm được nếu như tôi chỉ cần có thêm chút tiền nữa thôi – Đây là thế giới của kẻ giàu có!” Có lẽ đó là niềm tin của rất nhiều người. Nếu bạn là một người đang cần tiền để kết hôn, hoặc đang phải lo cho một gia đình đông con, hoặc đang mắc một bệnh nan y tốn kém, thì chắc bạn lại càng tin vào điều đó nhiều hơn.

 

Định nghĩa về sự giàu có cũng liên tục thay đổi trong tâm trí của nhiều người tại đất nước này: Trong các thập niên trước đây, giàu có là có thể mua sắm được nhiều thứ đắt tiền, sở hữu nhiều thứ xa xỉ, hay là ăn tại những nhà hàng sang trọng bậc nhất. Sau đó khi mọi thứ dần dần khó khăn hơn, người ta nghĩ rằng giàu có là khi ta có nhiều tiền để dành ở dạng ngoại tệ hoặc hiện kim. Còn bây giờ, giàu có đối với nhiều người chủ yếu là có thừa tiền để gửi con cháu mình đi du học ở nước ngoài, để mua nhà ở nước ngoài, để thay đổi hộ khẩu của mình sang nước ngoài… Ở các nước nghèo và chậm phát triển hay trong các gia đình nghèo khó, nỗ lực để kiếm tiền, để lo được cơm – áo – gạo – tiền cho bản thân và cho cả gia đình thường lấn át đi hầu hết các nỗ lực và lo lắng khác, và đốt cháy cả đời người, khiến một người không nhận ra rằng họ đang dành hết tất cả mọi thời gian của cuộc đời chỉ để suy nghĩ đến tiền như thế nào. Nhưng, ở các nước giàu và phát triển, cũng như trong các gia đình giàu có, nỗ lực để làm cho bản thân họ và gia đình họ ngày càng giàu có hơn nữa, hay là ngày càng được thỏa mãn và sung túc trong sự giàu sang nhiều hơn nữa, cũng đang lấn át đi mọi suy nghĩ khác và bào mòn cuộc sống của họ từng ngày. Người nghèo mơ ước được giàu có, người đầy đủ mong được giàu có hơn, và người đã giàu rồi lại càng mong mình sẽ được giàu có nhiều hơn nữa. Không có nơi đâu là điểm dừng cho ước vọng làm giàu của con người.

 

Thật ra, chúng ta vẫn có thể nhìn thấy được những sự thật trái ngược trong những con người được cho là giàu có:

 

Có những người giàu có về tiền bạc nhưng lại nghèo nàn về sức khỏe: họ nỗ lực tìm việc làm, tìm cách để làm giàu – nhưng lại bất chấp sức khỏe của bản thân mình, bất chấp những nguy hiểm đã và đang và sẽ có thể gây tổn hại đến chính thân thể họ. Đến cuối cùng thì đa phần tiền bạc mà họ kiếm ra được nhiều khi cũng chỉ là để chờ ngày chuyển vào tài khoản của những người khác.

 

Có những người giàu có về của cải vật chất nhưng lại nghèo nàn về tâm hồn và tình cảm: việc kiếm tiền và kiếm tìm những của cải vật chất đã làm họ đánh mất những khoảng thời gian cần dành cho gia đình, cần dành cho các mối liên hệ, cần dành cho chính bản thân mình – để có thể suy gẫm, học hỏi, lắng nghe, quan tâm chia sẻ, làm giàu cho chính phần tâm hồn và tình cảm của họ. Để rồi đến ngày ra đi, họ ra đi một cách lặng lẽ và không để lại được dấu ấn gì cho mọi người xung quanh ngoài những thứ của cải mà họ kiếm tìm.

 

Có những người thể hiện sự giàu có và đẳng cấp của mình qua cách ăn uống, mua sắm, vui chơi, đi du lịch, thỏa mãn cuộc đời mình, lại cũng có người không được giàu có như vậy nhưng vẫn nỗ lực vay mượn và dùng hết tiền của gia đình mình với mong ước đạt được những điều tương tự ấy. Để rồi khi cuộc vui đã tàn và bữa ăn đã kết thúc, họ mới ngỡ ngàng nhận ra mọi thứ ấy chẳng thể nào đem đến sự giàu có thật sự, niềm hạnh phúc thật sự cho linh hồn.

TIẾNG KÊU CỦA NGHÈO và GIÀU (P2)

TIẾNG KÊU CỦA NGHÈO và GIÀU (P2)

 

Sự nghèo thiếu đang báo động cho một Hội Thánh đó là phần trăm người đi nhóm cầu nguyện mỗi buổi sáng, biết đọc Kinh Thánh, biết cầu nguyện, biết dâng 1/10 quá bé nhỏ so với số tín hữu. Chỉ khi tình thế đảo ngược, Cơ Đốc nhân khát khao tìm kiếm Đức Chúa Trời như tìm kiếm bửu vật ẩn bí thì họ sẽ vui lòng làm giàu cho Đấng Christ và thay đổi được cục diện đói khát, nghèo thiếu như hiện tại.

 

 

Có quá nhiều điều đáng buồn trong thời kỳ cuối rốt, trong đó một thực trạng nhức nhối khác được áp dụng ấy là một số người theo Chúa mà lại đang cố gắng để làm giàu thuộc linh theo cách của mình. Họ cố gắng để yêu thương, để làm lành, cố gắng yêu Chúa và phục vụ, cố gắng để không phạm tội bằng sự nỗ lực cá nhân chứ không phải được biến đổi từ bên trong bởi sự hiện diện và hành động của Chúa Thánh Linh.

 

 

Ngày xưa, Giô-sép đã thực sự thắng vì chính sự biến đổi từ bên trong, ông đã rất giàu, giàu như là một tỉ phú – “tỉ phú tâm linh”. Sự giàu có của chỉ một mình ông đã cứu vô số người thoát khỏi vũng lầy của sự nghèo thiếu tâm linh, đã dập tắt được tiếng hét của những điều tầm thường, tội lỗi và dành chỗ cho sự công chính cùng cao đẹp. Chỉ có một cách duy nhất, duy nhất để chúng ta không bị nghèo thiếu tâm linh đó là chúng ta phải đến với Đức Chúa Trời, Đấng giàu có vô lượng, vô biên, chính Ngài sẽ khiến cho ta được no đủ trong tình trạng đói khát tâm linh. Mỗi chúng ta cần đến gần Ngài bằng tấm lòng trống không hạ mình, nhường chỗ cho sự vinh hiển Ngài thay vì vật chất, xác thịt hay bất kỳ điều gì khác.

 

 

Cầu xin Chúa Thánh Linh ban năng lực và quyền phép để con cái Chúa đủ sức mạnh thoát khỏi những giá trị đạo đức suy đồi, bại hoại, không theo tiêu chuẩn của Thánh Kinh. Đồng thời, vượt trên mọi điều tầm thường, lẫn quẫn của con người tìm kiếm mà sống đời sống thật sự giàu có trong Đấng Christ, để âm vang của công bình, yêu thương và biến đổi cộng đồng đến với những người chung quanh. Đặt Chúa lên trên đỉnh cao trong đời sống chúng ta ấy là điều Chúa muốn chúng ta dốc lòng tìm kiếm và là chìa khóa của sự giàu có thật.


TIẾNG KÊU của NGHÈO và GIÀU (P1)

TIẾNG KÊU của NGHÈO và GIÀU (P1)

 

“Giàu” là một điều mà nhiều người khát khao tìm kiếm vì với họ giàu có là hạnh phúc. Mỗi sáng thức dậy người người bắt đầu với công việc tất bật, tối mặt tối mày, đêm đến thì trở về với giấc ngủ để phục hồi sức lực, ngày mai họ lại tiếp tục một cách tương tự như vậy. Cơm, áo, gạo, tiền là những thứ thiết yếu mà người ta phải tìm kiếm để sinh tồn. Vượt khỏi sự cố gắng để tồn tại cho ngày hôm nay, con người còn có kế hoạch chuẩn bị cho ngày mai. Ngày qua ngày, họ trông chờ cho những vất vả đi qua để cố tìm cho mình một cuộc sống thịnh vượng hơn.

 

Tiếng thét của cuộc đời, tiếng kêu của nhu cầu vật chất khiến người ta rối lên và tăng tốc để tìm kiếm tiền bạc. Vì theo quan điểm của nhiều người, chỉ có sự giàu có mới cứu người ta thoát khỏi nghèo thiếu và vươn lên. Có một tiếng vang lớn hơn và tha thiết hơn cả tiếng thét của cuộc đời, nó râm ran mà lại khó lọt tai nhiều người, đó là tiếng vang của sự công bình, thánh khiết, tiếng vang của sự đói khát tâm linh. Tiếng vang ấy bị chèn ép ngỡ như sự công bình đã mất cả chỗ đứng trong cộng đồng người, vì tiếng thét của sự xấu hổ không một chút áy náy, sự lột trần không biết hổ thẹn, sự chai lỳ không sợ thần thánh đã lấn át để mở rộng địa bàn của nó, tiếng vang của sự nghèo đói tâm linh dường như không mấy người nghe thấy.

 

Con người đã rơi vào vực thẳm của tội lỗi, bề dày của sự tối tăm, sự đồi bại của nó lên đến mức độ báo động cho cả nền đạo đức của con người chứ đừng nói đến đạo đức theo tiêu chuẩn của Đức Chúa Trời. Sự giàu có, thịnh vượng của tội lỗi đi đôi với sự nghèo thiếu trầm trọng của sự công bình. Một cuộc chiến đang diễn ra, cuộc chiến giành lại chỗ đứng cho sự công chính. Một sự thật không thay đổi đó là sự công chính đã chiến thắng khải hoàn đời đời trong quyền phép của Đấng vô tội. Dầu vậy, con người phải tiếp tục chiến đấu trong uy quyền của Đấng Christ để không đánh mất mình và không bị vùi dập mình vào hố sâu tội lỗi. Chúa muốn mỗi người, đặc biệt là Cơ Đốc nhân phải tận dụng sức mạnh đó để chiến đấu cho Đấng Christ khi còn đi lại trên đất để thêm lên chỗ đứng của sự công bình trên địa cầu đang bị tội ác cai trị và khống chế.

 

Trong thực tế, có những người theo Chúa có cuộc sống vật chất đầy đủ, có tri thức cao hay là người có cuộc sống nghèo thiếu với một kiến thức giới hạn nhưng lại là những người không biết dâng 1/10 cho Chúa, không biết đọc Kinh Thánh và cầu nguyện mỗi ngày, không biết ban cho và phục vụ, không biết bày tỏ về Chúa Giê-xu, trong một góc độ thuộc linh, người ấy đang là người có một đời sống nghèo khó nghiêm trọng.

 

Một người gọi là đầy tớ Chúa mà chỉ biết hầu việc Chúa như một cái nghề, luôn tìm cách tránh né mọi khó khăn, luôn tìm kiếm sự ổn định cho mình và gia đình, luôn than vãn về những khó khăn, thách thức trong chức vụ, luôn thu vén cho mình được thịnh vượng về vật chất, thích thú với sự nhận lãnh hơn là ban cho, không quan tâm đến sự tồn vong của Hội Thánh, không biết dấn thân, hy sinh và cầu thay cho dân sự Chúa, đó cũng là một sự nghèo khó tâm linh.

Tấm Lòng Lắng Nghe và Học Hỏi 

Tấm Lòng Lắng Nghe và Học Hỏi 

Ê-sai 50:4-9

“Ngài đánh thức ta mỗi buổi sớm mai, đánh thức tai ta để nghe lời Ngài dạy, như học trò vậy” (câu 4b).

Câu hỏi suy ngẫm: Tiên tri Ê-sai nhấn mạnh tấm lòng lắng nghe và tinh thần học hỏi của Người Đầy Tớ Đức Chúa Trời như thế nào? Bạn học được gì từ tấm gương học hỏi của Người Đầy Tớ này?

Tiên tri Ê-sai đề cập rất nhiều về Cứu Chúa Giê-xu như là Người Đầy Tớ của Đức Giê-hô-va. Trong chương này, ông nhấn mạnh đến tinh thần lắng nghe và học hỏi của Ngài. Để trở thành một đầy tớ trung thành và hữu ích, người đó phải có tinh thần học hỏi và chuyên tâm lắng nghe ý muốn của chủ mình. Tại đây, Chúa Giê-xu được mô tả là một Đầy Tớ có mối liên hệ mật thiết với Chủ, Chủ đánh thức Ngài mỗi sớm mai để lắng nghe Chủ dạy dỗ (câu 4), và là một Đầy Tớ luôn vâng phục Đức Chúa Trời là Cha, sẵn sàng chịu khổ để hoàn tất sứ mạng được giao (câu 6). Trong suốt những năm trên đất, Chúa Giê-xu đã thể hiện một đời sống thuận phục ý muốn Đức Chúa Cha một cách tuyệt đối (Giăng 8:28; 5:30; 11:42). Ngài đã để lại tấm gương đầy tớ, học trò trung tín cho chúng ta noi theo.

Câu 7-9 cho thấy kết quả của tấm lòng lắng nghe là được Đức Chúa Trời “giúp đỡ”. Ngài sẽ không bị “xấu hổ” và kẻ thù cũng không dám “kiện” hay “đối địch” Ngài. Cho dù Chúa Giê-xu phải chịu khổ nạn như Tiên tri Ê-sai báo trước, nhưng Ngài vui lòng vâng phục Đức Chúa Cha trong tinh thần của Người Đầy Tớ trung kiên.

Cơ Đốc nhân được Chúa Cứu Thế Giê-xu chuộc bằng chính huyết của Ngài trên cây thập tự, nên tất cả chúng ta đều được gọi là “đầy tớ” hay “môn đồ” của Chúa, vậy chúng ta phải học theo gương Ngài trong tinh thần học hỏi và tấm lòng lắng nghe, thuận phục. Chúng ta phải ở trong mối tương giao mật thiết với Chúa vì đó là bí quyết để làm đẹp lòng Chúa, Chủ của chúng ta. Mỗi buổi sớm mai khi thức dậy hãy bắt đầu ngày mới với thì giờ cầu nguyện và học hỏi Lời Chúa. Chúng ta phải tìm kiếm sự hướng dẫn từ Chúa trước tiên trong ngày mới của mình như kinh nghiệm của Vua Đa-vít: “Ta sẽ dạy dỗ con, chỉ cho con nẻo đường phải đi; Mắt Ta sẽ dõi theo mà khuyên dạy con” (Thi Thiên 32:8-BTTHĐ).

Lắng nghe và học hỏi Lời Chúa là một kỷ luật thuộc linh chúng ta phải rèn tập để thành thói quen và ưu tiên mỗi ngày trong đời sống. Vì chỉ khi lắng nghe Lời Chúa thì mới biết ý muốn Ngài và sống đúng mục đích Chúa muốn trên đời sống chúng ta. Nhờ tấm lòng lắng nghe và học hỏi, chúng ta trở sẽ thành đầy tớ trung tín và kết quả cho Chúa như một người học trò hết lòng làm theo điều Thầy mình dạy chắc chắn sẽ được thành công. Từ đó, Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta biết sử dụng lời nói an ủi, khuyến khích, và nâng đỡ kẻ khác.

Bạn có kỷ luật bản thân trong việc lắng nghe và học hỏi Lời Chúa mỗi buổi sớm mai chưa?

Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã cứu chuộc con để con trở nên đầy tớ của Ngài. Xin giúp con giữ được kỷ luật lắng nghe tiếng Chúa qua tinh thần học hỏi Lời Ngài mỗi khi bắt đầu một ngày mới.