THÔNG TIN VỀ VỊ TRÍ GỬI XE CHƯƠNG TRÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG

THÔNG TIN VỀ VỊ TRÍ GỬI XE CHƯƠNG TRÌNH XUÂN YÊU THƯƠNG

Thân chào quý con cái Chúa, để Chương trình Xuân Yêu Thương diễn ra thuận lợi cho quý con cái Chúa đây là thông tin vị trí để xe khu vực Sân Vận Động Phú Thọ:

Ba cổng 2a, 2b, Hoa viên đều là xe máy

Cổng 1 ở 219 Lý Thường Kiệt là cho ô tô.

Thân ái.

Sự Cao Trọng Thật

Sự Cao Trọng Thật

 

 

“Song trong các ngươi không như vậy; trái lại, hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ; còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người. Vì Con người đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.”

(Mác 10:43-45)

 

Giữa chúng ta có lẽ không có tham vọng nào phổ thông hơn, hay thúc bách hơn là ham muốn làm lớn để nhận được sự cao trọng. Ai là người làm lớn trong cộng đồng của bạn? Ai là những vĩ nhân trong thời chúng ta? Những nhân vật chính trị tên tuổi thường đăng trên các báo chăng? Những tỉ phú, những người có thế lực cao, những người có tài năng xuất chúng chăng? Hay là những người thực sự đã tung hoành trên thế giới này? Nói cách khác, có phải sự cao trọng chỉ về những người chúng ta gọi là thành công?

 

Từ xưa đến nay, bao giờ cũng luôn có nhiều người hết sức nhiệt thành đi tìm sự cao trọng. Tham vọng của họ ở ngay chốn đông người, thí dụ như Gia-cơ và Giăng, là các môn đồ của Chúa Giê-xu. Hai người này chẳng phải vô cớ được gọi là Con Trai Của Sấm Sét.  Họ chăm vào những địa vị cao trọng trong vương quốc do Chúa Giê-xu sắp thiết lập. Họ “đến gần Ngài mà thưa rằng: Lạy thầy, chúng tôi muốn thầy làm thành điều chúng tôi sẽ xin.  Ngài hỏi rằng: Các ngươi muốn ta làm chi cho? Thưa rằng: Khi thầy được vinh hiển, xin cho chúng tôi một đứa ngồi bên hữu, một đứa bên tả” (Mác 10:36-37).  Bạn có quen biết những người nào giống như thế không?  Họ chen nhau tranh giành cho được vị trí nổi trội. Họ đang nhắm tiến đến tột đỉnh và chẳng cần quan tâm đến có ai biết hay không. Dầu vậy, không phải mọi người đều tiến thân như thế. Có thể chúng ta đang thực hiện theo một phương cách khác.

 

Mác 10:41 cho biết “Mười sứ đồ kia nghe sự xin đó, thì giận Gia-cơ và Giăng.” Theo chúng ta biết, mười môn đồ kia không hề lên tiếng xin những địa vị như thế trong vương quốc hầu đến. Nhưng trên thực tế, khi nghe việc Gia-cơ và Giăng đang làm, họ đã tức giận.  Điều gì ẩn đàng sau sự phẫn nộ đó? Vì sao có sự tức giận? Hãy nghĩ đến những cảm giác mà đôi khi chúng ta có. Vì sao chúng ta rất bực bội khi cảm thấy sự tự phụ và tự quảng cáo ở nơi người khác? Có phải một phần vì đó là những mong mỏi của chúng ta, những ao ước bất thành của chúng ta không? Có thể nói, đấy là khác biệt giữa Gia-cơ và Giăng với các môn đồ còn lại. Chúng ta đều có những phương cách khác nhau, nhưng dù hăm hở hay rụt rè, công khai hay âm thầm, chúng ta thảy đều ấp ủ những giấc mơ được làm lớn.

 

Chúa Giê-xu dạy dỗ cho những người này hết sức ấn tượng. Trước hết Ngài trả lời: “Các ngươi không biết điều mình xin. Các ngươi có uống được chén ta uống, và chịu được phép báp-tem ta chịu chăng?” Họ trả lời thẳng thắn: “Được,” dường như để bảo: Chúng tôi có thể giải quyết được. Chúa Giê-xu công nhận họ nói đúng nhưng Ngài nói cho họ biết rằng điều họ đang xin không thuộc thẩm quyền của Ngài. Toàn bộ vấn đề đó nằm trong tay Đức Chúa Cha. Nhưng điều đáng lưu ý là Chúa không quở trách họ vì đã xin như vậy.  Ngài không nói cách khắt khe: “Không có chỗ cho tham vọng và thói dương dương tự đắc như thế giữa những người theo ta đâu!”  Trái lại, Ngài thấy lời cầu xin của họ là xứng đáng. Bằng chứng là họ có đức tin nơi Ngài – họ tin Ngài sẽ có một vương quốc, có tình yêu và họ muốn luôn được ở gần bên Ngài. Ngài dịu dàng hỏi họ: Các ngươi có uống được chén ta uống, và chịu được phép báp-tem ta chịu chăng?”

 

Chúa Giê-xu không bao giờ làm suy yếu những tham vọng trong bạn. Khao khát để được làm người độc đáo, để tạo một thành công có ý nghĩa trong đời, để được sống đầy trọn tiềm năng của mình, đấy là điều đúng, thậm chí còn tốt nữa. Chẳng có gì gọi là kính sợ Chúa khi chúng ta chỉ thỏa lòng với những điều bình thường mà chẳng có chút tham vọng nào. “Bạn phải có một hoài bão. Nếu không có hoài bão làm sao biến ước mơ thành hiện thực?” Đức Chúa Trời là Đấng đã đặt điều đời đời trong lòng chúng ta và đã nhen lên những hoài bão ấy trong chúng ta, thì Ngài luôn trân trọng những khát vọng chính đáng của bạn để được cao trọng.  Hãy nhớ điều đó. Bạn không cần phải hổ thẹn về những ngọn lửa tham vọng ấy đang bùng cháy trong bạn.

 

Việc Chúa Giê-xu đã dạy dỗ cho các môn đồ Ngài, và cũng cho chúng ta ngày nay, để loại bỏ nếp suy nghĩ tiêu cực của chúng ta về ý nghĩa của cao trọng. Quan niệm thông thường về sự cao trọng của con người đời nầy đã hoàn toàn đi lệch mục đích thật trong Chúa. Chúa Cứu Thế phán: “Các ngươi biết những người được tôn làm đầu cai trị các dân ngoại, thì bắt dân phải phục mình, còn các quan lớn thì lấy quyền thế trị dân.” Theo quan điểm này, người làm lớn là người trút hết gánh nặng của họ cho người khác rồi sai khiến người khác, còn mình thì không làm. Họ là những người có vẻ như điều khiển cả thế giới và bắt người khác phục vụ mình.

 

Nhưng Chúa Cứu Thế dạy: “Song trong các ngươi không như vậy.” Nói cách khác, đó không phải là khuôn mẫu của Đức Chúa Trời. Rồi Ngài phán một điều rất khác lạ và kinh ngạc đến nỗi dường như làm một cuộc cách mạng: “Hễ ai muốn làm lớn trong các ngươi, thì sẽ làm đầy tớ; còn ai trong các ngươi muốn làm đầu, thì sẽ làm tôi mọi mọi người.”

 

Chúa Cứu Thế hỏi: Các ngươi muốn làm lớn sao? Vậy hãy phục vụ người khác. Chữ này nguyên văn có nghĩa là làm người hầu bàn. Hãy đến phục vụ họ. Hãy làm thành những ước muốn của họ. Hãy đáp ứng nhu cầu của họ. Hãy đặt mình dưới quyền sai khiến của họ.  Đó là kiểu cao trọng kỳ lạ quá phải không?  Chúa Giê-xu lại hỏi: Các ngươi muốn làm người đứng đầu, người quan trọng nhất, người số một phải không? Ai lại không muốn? Rồi Ngài phán tiếp: Thế thì các ngươi hãy bắt tay vào làm công việc của một đầy tớ ngay từ bây giờ. Hãy phục vụ ngay đi. Chúa Giê-xu, Vua của thiên đàng vinh hiển cao sang tột cùng, nhưng Ngài đã hạ mình lấy mặc lấy áo của người đầy tớ. “Ngài vốn có hình Ðức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng mình với Ðức Chúa Trời là sự nên nắm giữ; chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình tôi tớ và trở nên giống như loài người;” ( Phi-líp2:6-7)

 

Dựa vào lời phán của Chúa Giê-xu, “Ai là người cao trọng thật?” Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ ngay đến những bà mẹ đã dành hết khoảng thời gian của đời mình để chăm sóc, phục vụ gia đình, ban tặng cho các con bà cả một kho tàng yêu thương và trìu mến. Những y, bác sĩ đã hy sinh quyền lợi riêng mình, dành thì giờ đi khám bệnh và cấp thuốc miễn phí, phục vụ cho những người nghèo vùng sâu, vùng xa của mọi miền đất nước. Thiết tưởng, tên của họ rất xứng đáng đứng đầu danh sách của những người được kính trọng trong vòng chúng ta.

 

Chẳng phải là chuyện quan trọng sao nếu bức tranh toàn cảnh trong thế giới này bằng cách nào đó bị đảo ngược? Điều gì xảy ra nếu người quan trọng nhất trên sân cỏ không phải là vận động viên ngôi sao bóng đá, nhưng lại là người giúp việc của đội bóng phát khăn lau mặt và chạy đi nhặt từng vỏ cam? Điều gì xảy ra nếu người ta thấy người nữ vĩ đại nhất không phải là nhân vật được in hình trên bìa báo nhưng là một cô gái trẻ thầm lặng tại một bệnh viện nọ đang mỉm cười với bệnh nhân và sẵn sàng làm công tác phục vụ của một người lao công?  Điều ấy chẳng quan trọng sao?

 

Chúa Giê-xu nói, ngay cả Con Người cũng “đã đến không phải để người ta hầu việc mình, song để hầu việc người ta, và phó sự sống mình làm giá chuộc cho nhiều người.” Bí quyết nằm ở đó. Đấng đã sống ở giữa chúng ta từng tự xưng là Con Người, nhưng Ngài không hề trút gánh nặng của mình cho người khác. Ngài có tâm tình nhu mì và khiêm nhường, luôn đứng về phía người nghèo, người thất thế, thậm chí về phía những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài dành thì giờ chăm sóc trìu mến cho người bệnh, người cô đơn và người sầu khổ.  Thế nhưng khi dân chúng muốn tôn vinh Ngài lên làm vua, Ngài lại âm thầm rút lui khỏi họ. Khi các môn đồ thân thiết của Ngài tỏ ra vô tình và ích kỷ, thì đang ăn, Ngài bèn đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình, đổ nước vào chậu, và rửa chân cho từng môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho.  Và cuối cùng, Ngài đã phó chính Ngài chịu chết trên cây thập tự để những người đang đau thương được Ngài yêu, có sự sống đời đời.

 

Giờ đây Ngài sống lại rồi. Sự Chết và Âm phủ không cầm giữ được Ngài. Ngài sống lại từ cõi chết bởi quyền phép của Đức Chúa Trời. Giờ đây Ngài được gọi là Vua muôn vua và Chúa muôn chúa. Hết cả quyền phép trên trời và dưới đất đều thuộc về Ngài. Danh Ngài là Đấng Lạ Lùng, Đấng Mưu Luận, Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời Đời, là Chúa Bình An. Mọi đầu gối trên trời dưới đất bên dưới đất thảy đều quỳ xuống trước Ngài trong ngày sau rốt và mọi lưỡi thảy đều xưng Ngài là Chúa.

 

Bấy lâu nay chúng ta bị lừa dối bởi những ý tưởng cao trọng sai lầm, và vẫn cứ xử sự cách dại dột. Quan niệm của thế gian về sự cao trọng đã bị vạch ra cho thấy là hoàn toàn sai lầm qua đời sống và chức vụ của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Vấn đề không phải là bạn nhận được gì, mà là bạn cho gì. Không phải bạn đã thành công cách nào nhưng là phục vụ cách nào. Không phải bạn trở nên cao trọng nhờ đầu đội vương miện, nhưng chính là tấm lòng biết quan tâm người khác. Con đường dẫn mỗi chúng ta đến sự cao trọng thật chính là theo dấu chân Chúa Giê-xu và thông công với Ngài mỗi ngày.

Ơn Cứu Rỗi Diệu Kỳ

Ơn Cứu Rỗi Diệu Kỳ

 

 

(3 câu chuyện kỳ diệu đã xảy ra tại Tam Kỳ và Chiên Đàn, Quảng Nam)

 

Tôi là kẻ hậu sinh, tình cờ được nghe những câu chuyện này, những câu chuyện vừa lạ lùng, vừa hấp dẫn. Điều thú vị là những nhân vật của các câu chuyện, hoặc bản thân họ, hoặc con cháu họ vẫn còn sống, và hoàn cảnh xảy ra câu chuyện không phải ở đâu xa vời mà ngay chính tại Tam Kỳ, Quảng Nam. Cảm tạ Chúa, vì từ những câu chuyện đẹp như vậy, ơn cứu rỗi của Chúa đã đến với biết bao người tại vùng đất này, và hiện nay, những hậu tự của các cụ vẫn tiếp nối con đường của cha ông mình…

 

Thành phố Tam Kỳ trước đây là huyện Hà Đông, có nguồn gốc lịch sử khá phong phú, là bộ phận của vùng đất mới được hình thành từ đời Hồ Hán Thương (1403) với địa danh “xứ Hà Đông”. Đến năm Thành Thái 18, (1906), đổi thành phủ Tam Kỳ. Tam Kỳ, chỉ về 3 ngọn núi vây quanh thành phố: Kỳ Phú, An Hà và Chiên Đàn.

 

Về địa lý, thành phố Tam Kỳ nằm phía nam tỉnh Quảng Nam, phía bắc giáp huyện Thăng Bình, phía đông là biển, phía nam giáp huyện Núi Thành, phía tây là huyện Phú Ninh. Tuy nằm phía nam tỉnh, nhưng Tam Kỳ có ảnh hưởng khá lớn với các huyện thị còn lại, bởi đây là vùng đất khá phát triển về văn hóa, lịch sử, cũng như kinh tế, chính trị.

 

Năm 1911, đạo Tin Lành đã đến Đà Nẵng, những người Việt đầu tiên tiếp nhận Chúa đã ra đi truyền giảng bán sách của Thánh thơ Công hội. Năm 1920, HTTL Thanh Quýt được thành lập, một năm sau, HTTL Hội An, cũng hình thành. Những năm tiếp theo, đạo Chúa phát triển khá mạnh tại các vùng núi phía bắc tỉnh Quảng Nam. Những tín hữu quê ở Đại An tụ họp nhau xây dựng thành HTTL Đại An năm 1924, ở Phong Thử, HTTL Phong Thử được thành lập vào năm 1925, HTTL Trường An, 1926. Tuy nhiên, Tam Kỳ nằm khá xa vùng đất phía bắc này, nên Đức Chúa Trời có chương trình riêng của Ngài để đạo Chúa được rao truyền tại vùng phía nam tỉnh: Tam Kỳ, Tiên Phước, Thăng Bình… một cách nhanh chóng. Chúa đã bắt phục những người hầu như “không thể tin Chúa” và biến họ thành những “tay đánh lưới người” một cách kết quả.

Câu chuyện thứ nhất:

 

1Năm 1924, toàn tỉnh Quảng Nam đã được nghe đồn về đạo Tin Lành. Trong năm này có những người theo đạo Tin Lành đến chợ Tam Kỳ phân phát và bán sách nói về đạo mới này. Lời Chúa được gieo ra cách rộng rãi, vì sách hầu hết bằng chữ Nho, nhiều người hiếu kỳ mua xem, nhưng từ ngữ khó hiểu nên ít người quan tâm. Dân chúng thường gọi và truyền miệng nhau về một đạo mới có tên là “Gia-tô”. Người “Gia-tô” để ám chỉ người đi theo đạo này đã đến đây bán sách.

 

Cảm tạ Chúa, dấu chân của những người Tin Lành đầu tiên đã bước đi trên mảnh đất nghèo khó, khô cằn này, đã gieo ra hạt giống của Đạo Sự sống, đến kỳ sẽ nảy mầm, lớn lên và kết quả không ngờ.

 

Phép lạ đầu tiên Chúa đã làm để đem về trái đầu mùa tại Tam Kỳ là bà cụ Nguyễn Thị Võ. Vốn là người giàu có trong vùng này, gia đình nho phong, bà cụ Võ chỉ có người con trai duy nhất là ông Nguyễn Bá Diêu, tên thường gọi là Ấm Diêu. Chàng trai lớn lên do sự cưng chiều và quý mến của mọi người trong nhà nên sớm trở thành một công tử ăn chơi có hạng. Gia đình bà cụ Võ đất rộng mênh mông, cho đến hôm nay, dù thời cuộc bao lần thay đổi, họ vẫn còn giữ được một khu vườn rộng cả ngàn mét vuông giữa lòng thành phố Tam Kỳ. Khi đi ngang, nhìn thấy cổng ngõ vẫn còn in nét xưa, những ai hoài cổ chắc cũng có một phút giây chạnh lòng…

 

Một ngày nọ, ông Ấm Diêu bỏ nhà ra đi, làm bà cụ Võ và gia đình bối rối, lo lắng, nhớ thương. Bà cụ quyết định ra Hội An (Faifoo), bấy giờ là nơi phồn thịnh, đô hội, buôn bán, cờ bạc ăn chơi nhất thời bấy giờ để tìm con.

 

Ngày 19/3/1926, tại Hội An, bà cụ Võ gặp bà Ngô Công Thống và bà Đội Hoành, là những người quen biết trước đây. Hai bà này làm chứng về Tin Lành quyền năng của Đức Chúa Trời cho bà cụ Võ, với tấm lòng được Chúa Thánh Linh mở rộng, bà chăm chú lắng nghe, cuối cùng, bà cụ Võ nói rằng: “Nếu Chúa có quyền thì cho tôi tìm gặp được con trai của tôi, tôi sẽ tin Chúa ngay”.

 

3Bà cụ Thống tin quyết bảo: “Bà hãy lấy đức tin, tin nhận Chúa, rồi chúng tôi sẽ cầu nguyện, Chúa sẽ dắt con bà về đây ngay”. Bà cụ Võ đã yên lặng, quỳ gối, cúi đầu tiếp nhận Chúa, và hiệp với bà cụ Thống, bà Đội Hoành dâng lên Chúa Chí Cao lời cầu khẩn cho nan đề của mình. Những sự việc xảy ra sau đó là một sự huyền nhiệm vượt qua mọi sự giải thích bằng lý luận, vừa cầu nguyện xong, người con trai của bà cụ Võ đi ngang qua trước cửa nhà bà cụ Thống. Bà cụ Võ vui mừng, gọi con trai vào, thuật lại mọi việc Chúa đã làm, cả hai người trở thành những tín hữu đầu tiên tại Tam Kỳ.

 

Mười ngày sau (29//3/1926), tại dinh cơ của bà cụ Võ, một cuộc giảng Bố đạo được tổ chức do ông bà Giáo sĩ E. F. Irwin, ông Đốc học Olsen, Ms Hoàng Trọng Thừa, Ms Phạm Thành, học sinh trường Kinh Thánh Đà Nẵng, Ban Chứng đạo HT Đà Nẵng, Hội An. Trong 3 ngày đêm đã có 65 người tiếp nhận Chúa. HTTL Tam Kỳ đã bắt đầu hình thành từ đây.

 

Gia đình bà cụ Võ hiện nay vẫn còn con cháu sống tại khu vườn cũ. Con trai cụ Ấm Diêu, ông Nguyễn Bá Châu, lúc sinh thời là Thư Ký HTTL Tam Kỳ. Ms Mã Phúc Thanh Tươi, Quản nhiệm HTTL Chiên Đàn là cháu rễ cụ.

 

Phép lạ đã xảy đến cho gia đình bà cụ Võ, qua đó ơn yêu thương của Thiên Chúa đã cứu vớt biết bao người dân trong tỉnh Quảng Nam. Từ khi được thành lập đến nay, HTTL Tam Kỳ giống như một miền đất tốt cho hạt giống đạo, rất nhiều HT Chúa đã được thành lập từ nơi đây: Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, An Tân, kể cả một số HT vùng phía bắc tỉnh Quảng Ngãi (theo thống kê của HTTL Tam Kỳ là 26 HT).

4

Nhiều lúc trong cuộc sống, chúng ta gặp phải những khó khăn thử thách tưởng chừng như tuyệt vọng, nhưng Đức Chúa Trời luôn yêu thương chúng ta, và nếu đẹp ý Chúa, tất cả những gì đến với chúng ta thật là phước hạnh vô biên. Câu chuyện của bà cụ Võ là một câu chuyện cảm động, đẹp như một huyền thoại, sống động hơn huyền thoại vì nó được Chúa ban ơn, và thú vị nhất là bây giờ, chúng ta có thể đến thăm ngôi nhà cũ, nơi cụ bà đã từng sống để chiêm nghiệm lại cuộc hành trình theo Chúa của mình, biết đâu lại có một khởi đầu…

Câu chuyện thứ hai:

Vào những năm 1940, tại làng Chiên Đàn đã có một số gia đình tin Chúa, họ là những tín hữu của HTTL Tam Kỳ, quê ở Chiên Đàn. Ông Nguyễn Luyện là một trong những người đó và ông cũng là một trong những trái đầu mùa của HTTL Chiên Đàn. Xuất thân là một nhà nho, nên ông Luyện khá cứng lòng khi nghe Tin Lành, chính vì thế nhiều nhân sự chứng đạo, khi đi lên Chiên Đàn đều không muốn đến làm chứng về Chúa cho ông. Tuy nhiên, về sau, Chúa lại dùng các người phụ nữ như: cô Thơm (em cụ Võ Tới), cô Toán, cô Như đến làm chứng, ông đã bằng lòng chấp nhận tin Chúa và trở thành một người rất sốt sắng trong việc truyền rao danh Chúa. Ông cùng các tín hữu tại làng Chiên Đàn tổ chức nhóm tại các gia đình vào mỗi buổi chiều tối, khoảng 5-6g. Chiều nào cũng vậy, họ tụ họp nhà này đến nhà khác để thờ phượng Chúa mà không hề cảm thấy mỏi mệt.

 

Một lần nhóm thờ phượng tại nhà ông Huỳnh Do, khi mới bắt đầu cầu nguyện và hát Thơ thánh thì bên ngoài đã có hàng mấy chục người ngồi với gậy, roi, dây dừa để sẵn. Họ đến để bắt tội các người theo đạo “Gia-tô”. Ông cụ Luyện rất bình tỉnh, ông nói với họ: anh em cứ ngồi chơi, giờ này là giờ thờ phượng Đức Chúa Trời nên chúng tôi không tiếp được, sau giờ thờ phượng, anh em có hỏi, nếu biết gì, chúng tôi sẽ trả lời, nếu không biết, chúng tôi sẽ về báo lại mục sư chúng tôi (lúc bấy giờ là Ms Nguyễn Xuân Diệm) để trả lời cho anh em. Ông đọc Kinh Thánh, giải nghĩa cho anh em và mời mọi người cầu nguyện. Tất cả đều quỳ gối, úp mặt trên bộ phản ở giữa nhà đề cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời. Khi mọi người cầu nguyện, hát tôn vinh Chúa xong thì nhìn ra ngoài, đám người hung hăng đó không còn một ai. Tất cả mọi người trong nhà, không ai biết chuyện gì đã xảy ra, lý do nào mà những người định đến bắt con dân Chúa lại tự nhiên bỏ về không một lời nói… Bà cụ Nguyễn Thị Lợi, con gái cụ ông Nguyễn Luyện cũng có mặt hôm đó, khi ấy bà mới 12 tuổi.

 

5Đến vài ngày sau, khi nghe một số người có dự buổi rình bắt đạo Chúa hôm đó thuật lại thì các tín hữu mới biết: trong thời gian họ cầu nguyện, những người ngoại đạo đã rình mò, xem các tín hữu làm gì. Họ bỗng thấy có một đám lửa từ trên nóc nhà rơi xuống giữa phản gỗ, nơi mọi người đang cầu nguyện, rồi từ từ tan biến mất. Đám người kia hoảng hốt, không ai rủ ai, đều bỏ chạy; riêng con dân Chúa vì nhắm mắt, tập trung cầu nguyện nên hoàn toàn không thấy phép lạ Đức Chúa Trời đã giáng xuống để cứu họ thoát khỏi bắt bớ.

 

Từ câu chuyện xảy ra tại Chiên Đàn, nhiều người đã đầu phục Chúa, quay trở lại với Ngài, những người yếu đuối đức tin đã trở nên mạnh mẽ, sốt sắng. Một lần nữa, quyền năng của Đức Chúa Trời đã được bày tỏ ra, ơn quan phòng đối với con dân Ngài thật vô biên. Con gái cụ ông Nguyễn Luyện là cụ bà Nguyễn Thị Lợi, hiện nay đã 81 tuổi, là mẫu thân của Ms Võ Đình Đán; con trai của ông cụ Huỳnh Do chính là ông Huỳnh Thắng, hiện là Thư ký HTTL Chiên Đàn, cháu nội ông là Truyền đạo Huỳnh Xuân Diệu, hiện đang cộng tác với Ms Trà Văn Cam, HTTL Việt An.

Câu chuyện thứ ba:

6Ở HTTL Tam Kỳ, những năm trước 1975, ai cũng biết cụ Võ Tới, Trưởng ban Chứng đạo HTTL Tam Kỳ, một người rất yêu mến Chúa, hết lòng truyền giảng Tin Lành cho đồng bào. Cụ sinh năm 1875, người làng Mỹ Thạch, cụ là anh của bà Võ Thị Thơm, người đã làm chứng cho ông Nguyễn Luyện tin Chúa trong câu chuyện nói trên. Cụ Tới mồ côi cha từ thưở nhỏ, đời sống gia đình rất khó khăn, cụ có tất cả 10 người con. Với tấm lòng cứng cỏi, cụ không thích đạo Chúa nên thường hay trêu chọc bà cụ Thơm, em cụ, là người tin Chúa, gọi bà là “con Gia-tô”. Một ngày nọ, Cô con gái thứ bảy của cụ bị quỷ ám, thế gian gọi là bị dương. Lúc ấy cụ rất mê tín, thờ lạy rất nhiều thần, cụ van xin cúng rất nhiều, mời phù thủy đến cứu chữa cho con. Thầy phù thủy bảo phải cúng một con heo, vì thương con nên cụ Tới bằng lòng dù gia đình rất nghèo khổ. Ma quỷ hứa, qua lời thầy phù thủy, là sẽ cho gia đình cụ Tới 15 năm bình yên, Tuy nhiên chỉ 1 tháng sau, người con thứ bảy của cụ qua đời. Cụ rất tức bực, nên mời thầy phù thủy ngồi xác trở lại, ma quỷ hiện lên xưng là thổ địa. Cụ hỏi, sao hôm trước hứa cho gia đình ông 15 năm bình yên mà chỉ mới 1 tháng là con gái cụ chết. Ma quỷ chỉ đáp rằng, xấu quá cho ta thăng. Cụ nhận thấy mình đã mắc lừa âm mưu của ma quỷ, liền dẹp bỏ tất cả các bàn thờ đã lập, quyết định tin Chúa Cứu thế Giê-xu, lúc đó là năm 1930.

 

Năm 1933, cụ bị một trận đau thập tử nhất sinh, cụ xin Ms Nguyễn Xuân Diệm cầu nguyện cho cụ sống, sống không phải để ăn chơi cho thỏa lòng ao ước với người đời, nhưng sống để làm chứng cho bà con sớm tin theo Chúa. Cụ hứa nếu bà con cụ tin Chúa đủ hết, thì cụ sẽ làm chứng cho đồng bào, khi đó về với Chúa, cụ cũng vui mừng. Chúa đã nhận lời, cụ hết bệnh.

 

Từ đó, cụ và bà cụ Thơm, sốt sắng đi chứng đạo, lương thực chỉ có khoai chà, mang dép mo mà đi khắp các vùng Tam Kỳ, Quế Sơn, Thăng Bình. Tham gia Ban Chứng đạo, không lúc nào vắng mặt. Chúa quả có dùng cụ, dầu không biết chữ, cụ chỉ nhớ lời các tôi tớ Chúa đã giảng và nhớ lời Kinh Thánh khá nhiều, nên nhờ đó mà cụ đã đem được bà con nội ngoại tin Chúa.

 

Cụ về nước Chúa năm 1976. Cụ để lại một gia sản thuộc linh quý báu, nếu chỉ kể trong gia tộc, thì đã có khoảng 250 gia đình tin kính Chúa, chưa nói những đồng bào cụ đã làm chứng trong suốt 46 năm theo Chúa của mình.

 

8Cụ Tới có bảy người con gái và ba người con trai: cụ Võ Lành, Võ Xuân Hoa và Võ Thế Mậu. Cụ Võ Lành cũng là một nhân sự chứng đạo sốt sắng của HTTL Tam Kỳ, con cụ Võ Lành là Ms trí sự Võ Văn Hiền (Quản nhiệm HTTL Tiên Phước trước khi hưu hạ), cháu nội cụ là Truyền đạo Võ Tiến Dũng, hiện là Quản nhiệm HTTL Thu Bồn. Cụ Võ Thế Mậu là thân sinh của Ms Võ Đình Đán, Trưởng ban Đại diện TL tỉnh Quảng Nam, Quản nhiệm HTTL Trường Xuân. Các con cháu của cụ đều là những nhân sự chứng đạo của HT.

 

Cảm tạ Đức Chúa Trời, Ngài đã thương xót, kêu gọi, lựa chọn như lời Chúa phán: “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn Ta, bèn là Ta đã chọn và lập các ngươi, để các ngươi đi và kết quả…” (Giăng 15:16). Chúa đã dùng những con người rất đơn sơ để làm nên những việc rất lớn cho Ngài. Từ những con người bình thường, thờ lạy thần tượng, chống nghịch lại Đức Chúa Trời, khi gặp được Chúa, họ đã trở thành nguồn phước lớn cho cả gia tộc, cho đồng bào, suốt một đời tận tâm, tận lực cho công cuộc truyền giảng Tin Lành của Chúa Cứu thế Giê-xu, cứu vớt tội nhân.

 

———–

(Ghi chú: khi tôi viết bài này (tháng 4/2011) có dựa vào các bản tin đăng trên Thánh Kinh báo, Lược sử HTTL Tam Kỳ, lời kể lại của con cháu bà cụ Võ, cụ bà Nguyễn Thị Lợi, con dâu cụ ông Võ Tới. Hiện nay (năm 2012) cụ bà Nguyễn Thị Lợi đã về với Chúa, Tđ Huỳnh Xuân Diệu đang phụ tá tại HTTL Việt An, Ms Trà Văn Cam, Quản nhiệm HT đã nghỉ hưu)

Sự Kiện và Sự Thật

Sự Kiện và Sự Thật

 

 

Mỗi ngày, chắc bạn cũng như tôi, thích mở đài hay TV để nghe và xem tin tức. Tin tức là những câu chuyện xẩy ra mà người ta thu nhặt và đọc trên đài cho mọi người nghe. Người ta cũng thích nghe những phóng sự nữa, nói chung là ai cũng thích nghe những câu chuyện, dù là tin tức, phóng sự hay những sự kiện hoặc sự cố. Chính vì thế mà các hãng tin mới sống và tiểu thuyết gia mới ra công sức để viết và ngành phim ảnh thế giới mới phát triển như hiện nay.

 

Ngoài tin tức, các câu chuyện dài ngắn trong sách cũng như trên màn ảnh nhỏ, màn ảnh lớn, còn chứa đựng bao nhiêu sự thật, không ai biết rõ được. Nhiều câu chuyện thật lại được làm cho ra hư cấu để thu hút người đọc, người xem nữa. Vì thị hiếu con người chỉ thích sự kiện hay, li kỳ, huyền bí, nhiều kịch tính, nhiều tình tiết, mà không nhất thiết phải toàn là sự thật.

 

Nhưng ta nên phân biệt rõ sự kiện và sự thật.

 

Sự kiện thường nhìn thấy được, cụ thể và rõ ràng.

Sự thật khác hẳn. Không hiển hiện, phải tìm tòi, nghiên cứu, so sánh, lý luận.

 

Trước tòa án, quan tòa không thể chỉ xét đến sự kiện mà lên án phạm nhân, nhưng phải tìm đến sự thật. Vì vậy nên mới cần nhân chứng và bằng chứng.

 

Sự kiện cho thấy bề ngoài.

Sự thật cho biết nguyên nhân của mỗi vấn đề.

 

Ða số người vẫn đua nhau chạy theo sự kiện, vì thế mới hay bị lừa vì hàng giả, hàng xấu, hay phẩm chất không tốt. Nhưng khi đã biết sự kiện có thể không như mình tưởng thì người ta cố đi tìm sự thật.

 

 

Sự thật có khi gọi là chân lý, tức là điều đúng, điều phải.

 

Ngày xưa Chúa Giê-xu tuyên bố: Ta là con đường, là chân lý và sự sống. (Ðạo lộ, Chân lý, Sinh mệnh). Câu nói này đã làm cho nhiều người thấy khó hiểu.

Nhưng một lần đứng trước quan tòa La Mã tên Phi-lát, Chúa Giê-xu đã tuyên bố: Ta đến để làm nhân chứng cho chân lý, ai thuộc về chân lý sẽ nghe ta. Quan tòa hỏi lại: chân lý là cái gì? Phi-lát là quan án mà hỏi tử tội: chân lý là cái gì? Tương đương như hỏi: sự thật là cái gì? Tỏ ra viên quan này không biết công lý.

 

Chúa Giê-xu tuyên bố như trên vì đó là sự thật.

Sự kiện làm một người thợ mộc rồi sau bị vu oan và chịu tử hình phải được chứng minh bằng sự thật là: Chúa Giê-xu từ cõi trời, vào đời sống như một người, hi sinh làm sinh tế chuộc tội cho nhân loại, để ai bằng lòng tin nhận việc chuộc tội ấy là cho chính mình, thì sẽ được nhận vào nước trời.

 

Ngày xưa đạo sĩ Ni-cô-đem đến với Chúa Giê-xu để hỏi về quyền năng. Chúa không trả lời, nhưng bảo ông ta rằng: Nếu không tái sinh, thì không thể thấy vương quốc trời. Ni-cô-đem không hiểu, vì ông đang nghĩ đến sự kiện là phải vào trong lòng mẹ rồi được sinh ra lần thứ hai, chuyện đó không quan niệm được.

 

Nhưng sự thật là ai tin nhận Chúa Giê-xu là Ðấng vào đời chịu chết thay đền tội cho mỗi người thì sẽ được nhận vào vương quốc trời, như một hài nhi được sinh ra trong một gia đình trên trần gian này. Chìa khóa để vào nước trời là phải được tha tội. Tin nhận Chúa Giê-xu là Ðấng đã chết đền tội cho mình, thì được tha tội. Không có con đường nào khác để vào vương quốc trời ngoài con đường này, dù người ta không tin hay bài bác và cấm đoán cũng vậy. Vì sự thật ấy không thay đổi được.

 

Sự kiện vô số người tin nhận Chúa Giê-xu không phải vì đạo Chúa có ma lực nào hay đằng sau đạo Chúa có những hứa hẹn hoang tưởng nào. Nhưng vì đạo Chúa là con đường duy nhất để đến với cội nguồn của sự sống và hưởng an bình trong tâm hồn, tức là vào chân lý, vào sự thật.

Khi tìm được một con đường như thế thì không có sức mạnh nào trên đời này làm cho người ta rời bỏ, vì làm gì còn con đường nào khác?

 

Mời các bạn tin Chúa Giê-xu để biết sự thật, sống trong sự thật và hưởng được ân phúc do sự thật đem lại.

 

Khi đã nắm bắt được sự thật, thì bao nhiêu sự kiện không còn quan trọng nữa.

Tự Do Thật

Tự Do Thật

“Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen để trồng và giữ vườn. Rồi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán dạy rằng: Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết.”

(Sáng Thế Ký 2:15-17)

(1) Có người cho rằng tự do trên đường rầy xe lửa, chỉ là tự do một chiều đã được định hướng sẵn không thể thay đổi; mặt khác có quan điểm cho rằng chỉ có tự do khi ta muốn làm gì thì làm.

(2) Thật ra cả hai thái cực trên đều không phải là tự do thật. Muốn biết rõ thế nào là tự do thật, chúng ta phải tìm về những ngày đầu tiên của lịch sử loài người. Thuở khai thiên lập địa, Đức Chúa Trời dựng nên con người, đặt hai ông bà A-đam và Ê-va vào cảnh vườn Ê-đen, Ngài phán: “Con được tự do ăn hoa quả và các thứ cây trong vườn.” Thánh Kinh cho biết món quà đầu tiên Đức Chúa Trời ban cho loài người là “Tự Do”. Muốn ăn trái cây nào cũng được, muốn chọn hoa quả nào thì chọn, trong vườn có một cây sự sống rất quý, hai ông bà vẫn được tự do ăn. Tuy nhiên có một cây là “cây biết điều thiện và điều ác” thì Đức Chúa Trời đã dặn dò rất kỹ lưỡng rằng chớ nên ăn đến, nếu ăn thì chắc chắn sẽ chết, rất nguy hiểm.

Trong vườn Ê-đen, Đức Chúa Trời ban tự do để con người chọn trái cây nào thích thì ăn, đồng thời Ngài cũng ban tự do để chọn trái cây được phép ăn và trái cây không được phép ăn. Nếu chỉ có một loại trái cây duy nhất để ăn thì chẳng khác nào tự do trên đường rầy xe lửa. Nếu thoải mái chọn trái cây được ăn cũng như trái cây bị cấm, tuỳ thích muốn ăn gì cũng được, thì hoá ra đó là tự do thoải mái muốn làm gì thì làm. Cả hai trường hợp này chưa phải là tự do đúng nghĩa.

Vậy tự do thật là gì?  Đức Chúa Trời ban cho con người được tự do chọn lựa, đó là món quà cao quý nhất. Ngài không ép buộc con người chọn điều nào nhưng Ngài ban cho con người được tự do để chọn những điều tốt, những điều đúng, những điều nên làm theo nhận định và suy nghĩ khôn ngoan của mình. Ngài ban cho chúng ta được quyền tự do quyết định chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu, điều nên làm và điều không nên làm, điều đúng và điều sai. Đây là đặc ân lớn nhất và trước nhất Chúa ban cho con người, vì Ngài dựng nên con người chứ không phải chế tạo ra cái máy. Đó chính là tự do thật.

Tiếc thay, con người đã dùng sự tự do Đức Chúa Trời ban cho để thay vì chọn lựa vâng lời Ngài thì lại chọn không vâng lời Ngài, hái trái cây cấm ăn để ăn, dù trước đó Ngài đã dặn dò rất kỹ lưỡng, từ đó tội lỗi đã xen vào trong con người, huỷ hoại linh hồn và thể xác con người cho đến ngày nay.

Tự do ai cũng muốn, ai cũng thích, nhiều người đấu tranh để có, nhưng cũng cần phải biết một điều: Tôi được ban cho quyền tự do chọn lựa, tự do quyết định nhưng đồng thời tôi cũng phải chịu trách nhiệm về quyết định chọn lựa của mình. Chọn vâng lời sẽ hưởng được phước hạnh, ngược lại, chọn không vâng lời thì phải chết, chết thể xác và chết tâm linh.

Con người đã chọn sai nhưng Chúa vẫn yêu thương tạo vật của Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-xu đã giáng hạ làm người, chịu chết thay cho tội lỗi của chúng ta trên cây thập tự, để đưa con người đến một sự lựa chọn cuối cùng: Chọn tin Chúa để được sống vĩnh hằng hoặc chọn không tin Chúa để phải chịu hình phạt đời đời nơi hoả ngục.

, nhưng khi bạn thực hiện quyền tự do, bạn cần phải nghĩ đến trách nhiệm. Đặc biệt sự chọn lựa của bạn đối với Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ quyết định cả cuộc đời của bạn trong hiện tại cũng như trong cõi vĩnh hằng.

Nhiều người cho rằng theo Chúa sao mà khó quá, bị cấm đoán đủ điều, phải làm điều này, không được làm điều nọ. Những người này đã hiểu sai Lời Chúa. Chúa chỉ đưa ra những chuẩn mực trong cuộc sống, điều tốt và điều xấu, điều nên sống và điều không nên, cũng như cảnh báo về những hậu quả nếu cứ sống trong sai trật, nhưng quyền quyết định vẫn là quyền tự do của mỗi người. Ngày Chúa Nhật bạn được quyền tự do chọn lựa đi thờ phượng Chúa hay ở nhà lo làm việc khác. Đến nhà thờ bạn được tự do chọn lựa vào học trường Chúa Nhật hay đi ăn sáng uống cà phê hoặc ngồi ở một góc nào đó tán gẫu. Giờ thờ phượng bạn được tự do chọn lựa ngồi nghe giảng, hòa lòng vào những bản thánh ca tôn vinh Chúa hay ngồi nói chuyện hoặc ngồi mà tâm trí để đâu đâu. Lúc dâng hiến bạn được tự do quyết định dâng với lòng biết ơn hoặc chỉ dâng chiếu lệ cho có. Sáu ngày còn lại sống giữa gia đình, xóm giềng, xã hội bạn có quyền tự do sống theo Lời Chúa dạy để nhiều người biết Chúa hay cứ sống theo thế gian để dù Chúa buồn nhưng được nhiều người ưa thích. Bạn có quyền tự do chọn người yêu là người trong Chúa hay ngoài Chúa. Bạn tự do quyết định hết lòng dấn thân hầu việc Chúa hay biếng nhác tránh né công việc Chúa v.v… Chúa dành hoàn toàn quyền quyết định cho bạn và tôi, nhưng xin được nhấn mạnh thêm một lần nữa: mỗi chúng ta phải chịu trách nhiệm về quyết định chọn lựa của mình.

Hiểu đúng tự do thật Chúa ban, bạn sẽ sử dụng quyền tự do để quyết định cách đúng đắn, ích lợi cho mình và cho Hội Thánh Chúa. Nếu quyết định sai thì Lời Chúa đã cảnh báo: “một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết”. Hãy cẩn trọng khi sử dụng quyền tự do Chúa ban cho.

Lẽ Thật Là Gì?

Lẽ Thật Là Gì?

 

Các phần Kinh Thánh trích dẫn sau đây giúp ta hiểu Lẽ Thật là gì:

 

  Giăng 8:32  Các ngươi sẽ biết lẽ thật, và lẽ thật sẽ buông tha các ngươi.

 

Giăng 8:40  Nhưng hiện nay, các ngươi tìm mưu giết ta, là người lấy lẽ thật đã nghe nơi Đức Chúa Trời mà nói với các ngươi; Áp-ra-ham chưa hề làm điều đó!

 

Giăng 8:44  Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, và không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối.

 

 

Giăng 8:45  Nhưng vì ta nói lẽ thật, nên các ngươi không tin ta.

 

Giăng 8:46  Trong các ngươi có ai bắt ta thú tội được chăng? Nếu ta nói lẽ thật, sao các ngươi không tin ta?

 

 

 Giăng 14:6  Vậy Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Cha.

 

 

Giăng 14:17  tức là Thần lẽ thật, mà thế gian không thể nhận lãnh được, vì chẳng thấy và chẳng biết Ngài; nhưng các ngươi biết Ngài, vì Ngài vẫn ở với các ngươi và sự ở trong các ngươi.

 

 Giăng 15:26  Khi nào Đấng Yên ủi sẽ đến, là Đấng ta sẽ bởi Cha sai xuống, tức là Thần lẽ thật ra từ Cha, ấy chính Ngài sẽ làm chứng về ta.

 

Giăng 16:13  Lúc nào Thần lẽ thật sẽ đến, thì Ngài dẫn các ngươi vào mọi lẽ thật; vì Ngài không nói tự mình, nhưng nói mọi điều mình đã nghe, và tỏ bày cho các ngươi những sự sẽ đến.

 

Giăng 17:17  Xin Cha lấy lẽ thật khiến họ nên thánh; lời Cha tức là lẽ thật.

 

Giăng 17:19  Con vì họ tự làm nên thánh, hầu cho họ cũng nhờ lẽ thật mà được nên thánh vậy.

 

Giăng 18:37  Phi-lát bèn nói rằng: Thế thì ngươi là vua sao? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Thật như lời, ta là vua. Nầy, vì sao ta đã sanh và vì sao ta đã giáng thế: ấy là để làm chứng cho lẽ thật. Hễ ai thuộc về lẽ thật thì nghe lấy tiếng ta.

 

Giăng 18:38  Phi-lát hỏi rằng: Lẽ thật là cái gì? Khi người đã hỏi vậy rồi lại đi ra đến cùng dân Giu-đa, mà rằng: Ta chẳng thấy người có tội lỗi gì cả.

 

 

Đối với một số người, Lẽ Thật chưa minh bạch lắm.

Nói như thế nghe như mâu thuẫn. Vì làm sao lẽ thật lại không minh bạch được?

 

Trong bài này chúng ta sẽ nghiên cứu về lẽ thật.

 

 

Theo định nghĩa của Kinh Thánh Tân Ước thì Lẽ Thật có ba nghĩa như sau:

 

 

1.  Điều gì có tính chất tin cậy được, chân thật, ngay thẳng. 

 

 

Tính chất này được sử dụng cho Chúa và cho người. Cách dùng từ Lẽ Thật theo nghĩa này không phải là lối dùng thường, và đôi khi trong bản Kinh Thánh tiếng Việt dịch là thành tín.  Đây là một đức tính quan trọng của Chúa được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong toàn bộ Kinh Thánh Tân Ước.

 

 2.  Nghĩa thứ hai của từ Lẽ Thật là: Điều gì thật và hoàn hảo đối nghịch với điều gì giả trá và thiếu sót. Đức tin của người tin Chúa được gọi là thật. Chúa Giê-xu xưng Ngài là Lẽ Thật được nhân cách hóa. Giăng nói rằng: Lẽ thật do từ Chúa Giê-xu mà đến và Chúa Giê-xu bảo rằng Thánh Linh sẽ dẫn người tin Ngài vào Lẽ thật để cho mọi người:

 

 

Biết Lẽ Thật (Giăng 8:32),

 

 

Làm theo Lẽ Thật (Giăng 3;21)

 

 

Ở trong Lẽ Thật (Giăng 8:44) và

 

 

Đời sống tái sinh của người tin Chúa là nhờ Lẽ Thật hay lời chân thật của Chúa mà được sinh ra (Gia-cơ 1:18).

 

 

   Lẽ thật theo nghĩa này không phải chỉ là giáo điều hay lý thuyết, mà là Lời Chúa dạy, Điều Răn, phải tuân thủ, nếu không sẽ bị trừng phạt. (Rô-ma 2:8, Ga-la-ti 5:7).

 

 3.  Nghĩa thứ ba của từ Lẽ Thật là dùng theo tĩnh từ (alèthinos) nghĩa là điều gì thật chứ không phải là bản sao. Tức là nguyên bản, bản gốc chứ không phải bản đã chụp sao lại hay chép lại. Bản thật chứ không phải chỉ là hình thức.

 

 

Hê-bơ-rơ gọi Chúa Giê-xu là hình thật của đền thờ tạm khi xưa (Hê-bơ-rơ 8:2), tương phản với những bóng của nghi thức thuộc họ Lê-vi (Hê-bơ-rơ 8:4f.).

 

 

Trong ý nghĩa này mà Lễ Tiệc Thánh được hình thành, vì Chúa Giê-xu tuyên bố rằng:

 

 

Ngài là bánh thật (Giăng 6:32,35) và rượu nho thật (Giăng 15:1), tức là từ đó trở đi, trong thánh tiệc, bánh và nước biểu trương cho Chúa Giê-xu.

 

 

Cùng một nghĩa đó, người thờ phượng Chúa phải lấy hết tâm thần và Lẽ Thật mà thờ phượng. Nghĩa là thờ phượng tức là thực sự tiếp cận với Chúa là thần linh tương phản với nghi lễ và thói tục giới hạn Chúa trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem hay trên một ngọn núi nào.

 

Xin nhắc lại, Lẽ Thật là:

 

Điều gì có tính chất tin cậy được, chân thật, ngay thẳng

Điều gì thật và hoàn hảo đối nghịch với điều gì giả trá và thiếu sót.

Điều gì thật chứ không phải là bản sao.

 

 

Khi áp dụng vào Chúa, chúng ta có thể nói:

 

Chúa đáng tin cậy, chân thật, ngay thẳng.

Chúa hoàn hảo và chân thật.

Chúa là hình thật chứ không phải là hình bóng.

 

 Chúng ta tin Chúa, cần biết rõ các điểm này: 

 

 1. Chúa không phải là một ông thầy thuốc, ta đến khám bệnh, ông thầy cho thuốc và ta không biết thuốc có giúp mình lành bệnh hay không. Chúa chúng ta hoàn toàn đáng tin cậy, chân thật và ngay thẳng. Nghĩa là lời Chúa nói là đúng, không thể sai lệch gì cả. Ta có thể căn cứ vào lời hứa của Chúa mà hành động sẽ có kết quả. Mặt khác, Chúa không có gì để ta phải nghi ngờ mà có thể hoàn toàn tin cậy.

 

 

Trong Chúa mặc dù có nhiều huyền nhiệm nhưng không có những huyền hoặc.

Nghĩa là có những điều ta không hiểu chứ không phải hư cấu không có thật.

Một điểm khác nữa là Chúa rất ngay thẳng. Nghĩa là không ai có thể hối lộ Chúa được. Hễ có tội thì dù là ai cũng vẫn bị lên án và trừng phạt.

 

Biết được Chúa như thế, chúng ta cần theo gương Chúa.

 

 

Nghĩa là: phải là người đáng tin cậy, không thất hứa, không lừa đảo. Những gì ta biết ta nói ra, nhưng nếu chưa thấu hiểu, cần học hỏi đào sâu hơn, nếu không, người ta sẽ cho ta là khoe khoang không chân thật.

 

   2. Theo ý nghĩa thứ hai về Lẽ Thật, chúng ta thấy Chúa hoàn hảo và chân thật. Nói khác đi, Chúa toàn thánh, toàn thiện. Nghĩa là trong Chúa không cần phải thêm bớt gì cả. Người ta nói nhân vô thập toàn, câu nói này rất đúng và không thể áp dụng cho Chúa Giê-xu được. Chúa từng thách thức mọi người cáo tội Chúa, và cho đến quan tòa Phi-lát cũng phải công khai tuyên bố: Ta không thấy người này có tội gì cả.

 

 

Chúng ta tin một đấng toàn thánh toàn thiện chứ không phải một lãnh tụ tôn giáo đã từng phải ăn năn sám hối về tội của mình. Chúa là đấng duy nhất có quyền tha tội cho con người và cũng chỉ một mình Ngài đủ tư cách làm sinh tế chuộc tội cho tất cả, vì Chúa hoàn toàn vô tội.

 

 3.  Theo ý nghĩa thứ ba về Lẽ thật, ta được biết Chúa Giê-xu là hình thật chứ không phải hình bóng. Chúa không phải là biểu tượng của tình thương mà chính Ngài là tình thương.

 

Chúa không phải là biểu tượng cho an bình mà chính Ngài là Vua hòa bình.

 

 

Ngày xưa người ta dùng chiên cừu giết đi làm sinh tế, đó là hình bóng về cuộc đền tội của con người, nhưng Chúa Giê-xu chính là sinh tế bị đóng đinh treo lên cây thập tự và chết vì toàn thể nhân loại.

Chúng ta không tin vào một biểu tượng, nhưng tin một Chúa Giê-xu đang sống và có thể trao đổi với Ngài bằng lòng tin và thành tâm cầu nguyện.

 

Thưa quý vị và các bạn, ai cũng ưa sự thật và rất ghét những gì mờ ảo dị đoan. Chúa Giê-xu chính là đối tượng cho những người như thế. Quý vị và các bạn có thể đến với Chúa Giê-xu, thử thách Ngài, tìm hiểu về Ngài và sẽ nhận ra rằng Chúa rất thật, rất chân thật, toàn thánh, toàn thiện, Đấng duy nhất đáng cho ta tôn thờ làm Chúa, làm chủ cuộc đời mình.

Tôi Làm Được Mọi Sự …

Tôi Làm Được Mọi Sự …

 

 

“Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”

(Phi-líp 4:13)

 

 

Trong cuộc sống ai cũng cần phải làm việc để nuôi gia đình và góp phần cho xã hội phát triển. Hội Thánh Chúa cũng vậy, luôn cần có nhiều người làm việc để góp công góp sức gây dựng và phát triển Nước Chúa trên đất. Tuy nhiên quan niệm về làm việc cũng có nhiều suy nghĩ khác nhau:

Một số người cho rằng với khả năng của con người có thể làm được mọi sự, vì vậy họ không cần đến Cứu Chúa. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của công nghệ thông tin đã làm cho nhiều người lầm tưởng con người có khả năng giải quyết mọi nan đề, kể cả nan đề của tội lỗi. Thế nhưng thực tế cho thấy càng văn minh tiến bộ thì tội lỗi càng gia tăng và tinh vi hơn. Càng tự hào rằng mình làm được mọi sự thì cá nhân chủ nghĩa, ý riêng càng có cơ hội vùng lên. Đây là quan niệm phổ biến ở bên ngoài Chúa, nhưng cũng không loại trừ ở một số tôi con Chúa.

Ngược lại, nhiều người cho rằng mình chưa xứng đáng để làm việc này việc nọ cho Chúa, họ thường nói: tôi thấy mình chưa đủ tiêu chuẩn để Chúa đẹp lòng, tôi không thể làm tốt điều Chúa dạy…  Những người này đã tự cho rằng tôi không có khả năng làm được mọi sự cho Chúa! Đúng vậy, bạn và tôi không ai có thể làm được và hoàn toàn không làm được. Vì trên thế gian, duy nhất chỉ có một người sống trên đất làm được tất cả mọi sự mà thôi, chẳng phải tôi mà cũng không phải bạn, đó chính là Chúa Giê-xu, Đức Chúa Trời đã giáng sinh làm người.

Ngày trước, Sứ đồ Phao-lô là người làm được nhiều công việc lớn lao cho Chúa, từ công tác truyền giáo khắp thế giới cổ thời đó, đến việc viết những bức thư để gây dựng đức tin hoặc giải quyết các nan đề của các Hội Thánh, và đã được trở thành một phần trong Kinh Thánh lưu truyền đến muôn đời; ông lại là một nhà trí thức, học với vị thầy nổi tiếng là Giáo sư Ga-ma-li-ên, nhưng khi đang ngồi trong tù viết thư cho Hội Thánh Phi-líp, ông đã tâm tình: Tôi làm được rất nhiều việc nhưng không phải tôi có khả năng hay tài cán gì, mà nhờ Chúa ban thêm sức cho tôi. Nếu không nhờ quyền năng của Chúa vận hành trong đời sống thì tôi chẳng làm chi được.

“Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”. Có hai phần rõ rệt ở đây, phần của tôi và phần của Chúa. Chúa ban thêm sức nhưng tôi phải làm chứ không phải Chúa ban sức rồi thì tôi ngồi đó mà thụ hưởng hay đòi hỏi. Tôi làm được mọi sự không phải tôi tài giỏi nhưng nhờ tôi liên kết với Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Có thể chúng ta sẽ thắc mắc, vậy kiến thức, bằng cấp, tài năng của tôi không cần thiết nữa sao? Có cần phải học hỏi để hầu việc Chúa tốt hơn không? Chúa không dạy chúng ta không cần học hỏi mà ngược lại, Ngài dạy phải học hỏi không ngừng. Tuy nhiên có kiến thức mà không đặt dưới sự tể trị Chúa thì sẽ làm việc theo ý riêng mình, nếu thành công thì lên mình kiêu ngạo vì do tôi, nhờ tôi mà có; nếu thất bại thì rất dễ nản lòng, bỏ cuộc, gục ngã. Nhưng khi ý thức rằng bằng cấp, tài năng, trí tuệ Chúa ban cho là để phục vụ Chúa, chúng ta sẽ biết nương nhờ vào Ngài, cầu xin Chúa ban năng lực để phục vụ, đó chính là kinh nghiệm của ông Phao-lô. Nhiều người có suy nghĩ rằng nếu không có anh A, chị B thì Hội Thánh không phát triển được. Hoặc nhà thờ này do công tôi xây cất, không có tôi thì công trình không dễ hoàn thành. Nếu vậy thì chỉ có tôi và tôi, còn Chúa ở đâu? Có người cho rằng buổi truyền giảng hôm nay thành công có người tin Chúa là nhờ vào bài hát tôi hát, hoặc bài giảng tôi giảng, hoặc nhờ lời vọng xuất sắc của tôi viết v.v…, chẳng lẽ linh hồn của một người được cứu hay không lại tùy thuộc vào tôi hay sao? Chúa ở đâu? Cần nhớ rằng: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi”. Mỗi chúng ta dù như thế nào đi nữa, nếu bằng lòng dâng cuộc đời cho Ngài thì Ngài sẽ ban thêm sức để những khả năng, ân tứ của chúng ta hòa với năng lực Chúa ban đem lại những ích lợi cho công việc Chúa trên đất. Không ai là vô dụng không thể làm mọi sự cho Chúa với sức Chúa ban cho cả, trừ những người cố tình phạm tội và sống trong tội lỗi mà thôi.

Bạn có đang lo lắng vì thấy mình không thể sống tốt như Lời Chúa dạy. Xin đừng lo. Chúng ta có thể làm được mọi sự với điều kiện khá đơn giản: Tin nhận Chúa Giê-xu làm Chúa, làm chủ cuộc đời mình và đầu phục Ngài trọn vẹn. Khi chúng ta bằng lòng để Chúa Giê-xu làm chủ cuộc đời mình thì Ngài sẽ làm mọi sự qua chúng ta.

Bạn đang làm nhiều việc cho Chúa. Hãy vui mừng tạ ơn Chúa. Tự tôn hay tự ti trước công việc Chúa đều không phải là nếp sống Cơ Đốc đúng đắn theo Lời Chúa dạy. Sứ đồ Phao-lô đã kinh nghiệm được một bí quyết: “Tôi làm được mọi sự…” không bởi năng lực của chính ông, không phải bằng sự cố gắng của mình nhưng là “nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi.”

Xin đừng gắng sức loay hoay với năng lực của mình, nhưng hãy nhìn lại chính mình, ăn năn và bằng lòng mời Chúa cai trị đời sống cách trọn vẹn, bạn và tôi sẽ sống những ngày trên đất hữu ích cho Chúa, cho người.

Hãy để quyền năng của Chúa vận hành trong bạn, bạn sẽ được Ngài ban thêm sức làm được mọi sự cho Ngài và có thể vững vàng đối phó với mọi hoàn cảnh xảy đến trong cuộc sống.

Sức Mạnh Của Tình Yêu

Sức Mạnh Của Tình Yêu

 

Đây quả là một trường hợp hi hữu trong y học! Có lẽ người nhà bà Lorna Baillie vẫn chưa hết ngỡ ngàng bởi họ không thể tin được rằng, chỉ với một câu nói: “Anh yêu em” của chồng mà bà Lorna đã từ cõi chết trở về.

 

Vào ngày 10/02/2012 tại miền Đông Lothian, nước Tô Cách Lan, bà Lorna Baillie bị nhồi máu cơ tim. Khi nhân viên cứu thương đến tìm cách làm cho bà hồi tỉnh lại trước khi đưa đến bệnh viện Edinburgh’s Royal. Tại đó, các bác sĩ đã trải qua ba tiếng đồng hồ để chữa trị, nhưng hoàn toàn bó tay, họ tuyên bố bà Lorna đã chết và quyết định tháo tất cả các thiết bị điều trị ra vì không còn tia hy vọng nào cả.

 

Khoảng 45 phút trước khi phép màu này xuất hiện, người nhà bà Lorna đã rất đau buồn khi đội ngũ bác sĩ tuyên bố như vậy. Họ đã quây quần bên giường bệnh để nói lời tạm biệt với người phụ nữ 49 tuổi này.

1

 

Tuy nhiên, khi chồng bà, ông John Baillie, 58 tuổi tiến đến gần giường bệnh và khẽ thì thầm vào tai người vợ đã chết: “Anh yêu em” thì điều kỳ diệu xảy ra. Lúc này, ông John cùng 4 người con của mình đã rất ngạc nhiên khi thấy làn da của bà Lorna dần hồng hào trở lại. Tuy nhiên, cô y tá ở trong phòng khẳng định rằng, đó chỉ là dấu hiệu thông thường của người vừa trải qua ca cấp cứu kéo dài.

 

 

 

Tình yêu giữa ông John và bà Lorna đã trở thành một phép màu

 

 

Ngay cả khi mắt bà Lorna nhấp nháy và bàn tay bỗng bám chặt vào cô con gái út Leanne, thì cô y tá một lần nữa vẫn quả quyết rằng, đó chỉ là những cử động vô thức đã được dự đoán trước. Cảm thấy không thấy thuyết phục, ông John đã yêu cầu y tá gọi bác sĩ. Khi bác sĩ tới, họ phát hiện thấy tim bà Lorna đã đập trở lại và nhanh chóng chuyển bà tới phòng chăm sóc đặc biệt.

 

2

Cô con gái út, Leanne Porteous, 31 tuổi cho biết: “Cả gia đình chúng tôi rất yêu thương nhau và không bao giờ dễ dàng từ bỏ trong bất cứ việc gì. Tôi luôn thì thầm “Mẹ thân yêu, hãy mạnh mẽ và quay trở lại với chúng con.” Mẹ tôi đã thật sự trở lại!

 

Bác sĩ David Farquharson, Giám đốc y tế của Trung tâm Y tế Lothian tại Tô Cách Lan nói: “Gia đình bà Lorna đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất nhưng thật may khi kiểm tra, các dấu hiệu hồi sinh lại xuất hiện. Trường hợp chết đi sống lại như thế này quả thật rất hiếm gặp và bà ấy đang trong  quá trình dần bình phục.” 

Ông John và cô con gái út Leanne bên cạnh giường bệnh

Bác sĩ không sao lý giải được trường hợp của bà Lorna, bởi vì theo kinh nghiệm hành nghề, cùng với máy móc tối tân ngày nay thì hiệu số cho biết rất rõ ràng bà Lorna đã chết. Dầu bà Lorna đã sống lại sau khi nghe người chồng kề vào tai nói lời cuối cùng “anh yêu em”. Nhưng bác sĩ cũng cho biết rằng, rồi thế nào bà cũng chết!

 

Dù đứng trên bình diện nào để lý giải trường hợp chết đi sống lại của bà Lorna thì không ai có thể phủ nhận rằng sức mạnh của tình yêu thì thật là lạ lùng và hết sức là mầu nhiệm. Vâng, bởi tình yêu vô điều kiện Chúa Giê-xu đã nhập thế để mặc lấy xác thể của loài người. Ngài đã sống giữa vòng nhân loại, Ngài cảm biết được nỗi đau, nổi buồn, nỗi cô đơn và sự bất lực trong sự vật lộn với cái tốt và xấu trong mỗi con người chúng ta. Ngài cảm thương cho tình cảnh vô vọng của kiếp người, Ngài đã đứng lặng người khóc cho số phận của bao linh hồn đang đi vào chỗ chết mất.

 

Đang khi con người cố vươn lên chỗ hoàn thiện thì bóng tối và dục vọng cứ trì kéo, con người vẫy vùng rồi hụt hẫng trong cái vô tận của bất lực. S3ự chết là điều tất yếu là hậu quả của tội lỗi mà con người không sao thoát khỏi. Bởi vì lời Chúa dạy rằng, “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét”- Hê-bơ-rơ 9:27. Để giải cứu con người ra khỏi tình trạng đó, Chúa Giê-xu đã đến trần gian với thông điệp cứu ân và nghĩa cử của tình yêu chân thật. Ngài đã bằng lòng chết trên thập tự giá, lấy máu để rữa tội cho nhân loại và lấy thân mình để làm cầu nối giữa trời và người. Tác giả Hê-bơ-rơ nói rằng, “Hỡi anh em, vì chúng ta nhờ huyết Đức Chúa Jêsus được dạn dĩ vào nơi rất thánh, bởi đường mới và sống mà Ngài đã mở ngang qua cái màn, nghĩa là ngang qua xác Ngài”- Hê-bơ-rơ 10:19-20.

 

 

Cho dù y khoa và khoa học không sao lý giải được trường hợp bà Lorna tại Tô Cách Lan sống lại. Nhưng một thực tế đó là rồi bà cũng phải chết, nếu không chết vì bịnh tật thì cũng chết vì tuổi già. Nhưng Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời Ngài đã chết và sống lại trong vinh quang. Sự chết của Chúa Giê-xu giải quyết được toàn bộ nan giải và hậu quả của tội lỗi. Sự sống lại của Chúa Giê-xu đem đến niềm hy vọng sống cho những ai đặt niềm tin nơi Ngài. Chính Chúa Giê-xu tuyên phán rằng, “… Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin Ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi.”- Giăng 11:25. Sự sống mà Chúa Giê-xu nói đến ở đây bao gồm trên hai phương diện: Về hiện tại thì đó là sự sống phong phú, sự sống có mục đích, có ý nghĩa. Về tương lai thì đó là sự sống đời đời trong nước vinh hiển của Ngài.

 

Hãy nhớ rằng, sức mạnh của tình yêu có thể làm cho người ta sống lại, nhưng sống lại như thế nào là điều mà mỗi chúng ta cần phải suy nghĩ!!! Chúa Giê-xu đã sống lại, đó là sự sống vinh quang, sự sống đời đời và sự sống đó khẳng định rằng Ngài là Đức Chúa Trời. Đấng đắc thắng tội lỗi và mộ điạ không thể chôn chặt được Ngài. Nguyện tình yêu của Chúa Giê-xu qua sự thương khó sẽ đánh động vào mỗi tâm cang của chúng ta, nguyện quyền năng sự sống phục sinh vinh hiển của Ngài là cớ tích và động lực để mỗi chúng ta tấn tới trong sự phục vụ Ngài.

Di Sản Đức Tin

Di Sản Đức Tin

Những năm gầy đây, ở nước ta có dậy lên một phong trào bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, thiên nhiên quốc gia. Việt Nam tự hào là một trong những nước có nhiều di sản thiên nhiên và văn hóa được UNESCO công nhận như Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha, Thánh địa Mỹ Sơn, cố đô Huế, Phố cổ Hội An, và gần đây là Hoàng Thành Thăng Long (2010). Riêng Vịnh Hạ Long đã được bầu chọn là một kỳ quan thế giới. Sở dĩ người ta có ý thức coi trọng và bảo tồn những di sản văn hóa thế giới bởi vì chúng quý hiếm và có giá trị lâu đời. Đó là một việc làm có ý nghĩa và ích lợi.

Về phương diện tâm linh, chúng ta tự hỏi di sản nào quý báu mà chúng ta là con dân Chúa phải bảo tồn, phát huy và lưu truyền đây? Có lẽ chúng ta đều đồng ý rằng đó là di sản đức tin Cơ Đốc. Thật vậy, Chúa luôn nhắc nhở con dân Chúa ngày xưa cũng như Hội Thánh ngày nay về việc bảo tồn di sản đức tin. Kinh Thánh đã chép về gia đình Ti-mô-thê như một tấm gương tuyệt vời về sự lưu truyền di sản đức tin qua lời của thánh Phao-lô như sau : “Ta biết đức tin thành thật của con, là đức tin trước đã ở trong Lô-ít bà ngoại con, và ở trong Ơ-nít mẹ con, ta chắc rằng nay cũng ở trong con nữa.” (2 Ti-mô-thê 1:5). Di sản đức tin đó đã lưu truyền qua ba thế hệ mà không hề bị mai một hay phá sản.

Di sản đức tin Cơ Đốc cụ thể là gì? Tại sao chúng ta phải có ý thức bảo tồn, phát huy và lưu truyền, và làm thế nào để bảo tồn và phát huy di sản đức tin đó? Tác giả Thi Thiên 78:1-8 đã dạy những điều hết sức quý báu mà chúng ta cần học hỏi.

DI SẢN ĐỨC TIN LÀ GÌ?

Thi Thiên 78 thường được dùng vào dịp lễ hội hằng năm của người Do Thái (cùng với Thi Thiên 105, 106, 135, 136); nội dung những Thi Thiên này là suy ngẫm về công việc lạ lùng của Đức Chúa Trời đối với con dân Ngài từ khi ra khỏi Ai Cập cho đến thời Đa-vít. Riêng Thi Thiên 78 đặc biệt nhấn mạnh đến sự lưu truyền đức tin cho dòng dõi hậu lai.

 Vinh hiển và quyền năng của Đức Giê-hô-va (c. 4)

Chúng ta thừa hưởng một di sản tâm linh độc đáo là đức tin vào một Đức Chúa Trời vinh hiển, quyền năng, cao cả vĩ đại; Ngài là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa. Đấng đầy quyền năng và vinh hiển đáng cho muôn loài vạn vật ca ngợi. Tác giả Ê-sai đã ca ngợi Đức Chúa Trời chúng ta là Đấng siêu việt, Đấng đáng tôn thờ “Đấng Thánh phán rằng: Vậy thì các ngươi sánh ta cùng ai? Ai sẽ bằng ta? Hãy ngước mắt lên cao mà xem: Ai đã tạo những vật này? Ấy là Đấng khiến các cơ binh ra theo số nó, và đặt tên hết thảy; chẳng một vật nào thiếu, vì sức mạnh Ngài lớn lắm, và quyền năng Ngài rất cao… Ngươi không biết sao, không nghe sao? Đức Chúa Trời hằng sống, là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên các đầu cùng đất, chẳng mỏi chẳng mệt; sự khôn ngoan Ngài không thể dò.” (Ê-sai 40:25, 28) Thật không có ai, không có tôn giáo nào dạy chúng ta tin cậy và tôn thờ một Đức Chúa Trời như thế ngoại trừ Cơ Đốc giáo.

 Công việc lạ lùng của Chúa

Di sản đức tin này không phải là một đức tin chết mà là một đức tin sống động đặt vào một Đức Chúa Trời hằng sống, đang hành động giữa chúng ta với những công việc quyền năng, lạ lùng của Ngài. Đức Chúa Trời của chúng ta không phải chỉ là Đức Chúa Trời của quá khứ, ở trong Kinh Thánh mà thôi, mà là Đức Chúa Trời của hôm nay, của hiện tại vì Ngài là “Đấng hôm qua, ngày nay cho đến đời đời không hề thay đổi.” Trong đại lễ kỷ niệm một trăm năm Tin Lành truyền đến Việt Nam, chúng ta đã chọn một chủ đề thật ý nghĩa “Việc Chúa làm” và chúng ta đã có dịp nhắc lại lịch sử một trăm năm với bao ơn lành phép lạ Ngài đã làm giữa Hội Thánh Ngài mà chúng ta không bao giờ quên.

Có lẽ chúng ta phải đồng thanh với tiên tri Ê-sai mà nói rằng “Hãy ca tụng Đức Giê-hô-va, vì Ngài đã làm những công việc rực rỡ, nên phô cho thế gian biết” (Ê-sai 12:5)

 Luật pháp, điều răn của Chúa (c. 1, 5, 7)

Di sản đức tin đó cũng chính là những lời dạy dỗ quý báu trong Kinh Thánh. Có thể nói Kinh Thánh là một di sản, một kho báu vĩ đại mà Chúa ban cho nhân loại nhưng tiếc thay nhiều người chưa được biết đến. Kinh Thánh không phải là kinh, sách thường như bao nhiêu sách vở, kinh điển của các tôn giáo, mà là sách thánh, là Kinh Thánh, vì đó là Lời hằng sống của Đức Chúa Trời ban cho nhân loại để làm lương thực cho linh hồn bởi vì “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời.” (Ma-thi-ơ 4:4). Đó là lời được soi dẫn bởi Đức Chúa Trời, có quyền năng biến đổi con người “là lời sống và linh nghiệm sắc hơn gươm hai lưỡi, thấu vào đến nổi chia hồn, linh, cốt, tủy, xem xét tư tưởng và ý định trong lòng.” (Hê-bơ-rơ 4:12). Mục sư D.L. Moody đã khẳng định mạnh mẽ rằng “Tôi lỗi sẽ làm cho bạn xa rời Cuốn sách này, hoặc là Cuốn sách này sẽ làm cho bạn xa rời tội lỗi.” Chính vì giá trị độc đáo của Kinh Thánh mà cho đến nay nó đã được dịch ra trên 1.500 ngôn ngữ và thổ ngữ và là cuốn sách bán chạy nhất thế giới.

TẠI SAO PHẢI LƯU TRUYỀN DI SẢN ĐỨC TIN? (Thi Thiên 78:6-8)

 Di sản đức tin Cơ Đốc vô cùng quý báu

Di sản văn hóa, lịch sử là công trình do tay con người làm ra, nhưng di sản đức tin Cơ Đốc đến từ một Đức Chúa Trời hằng sống, chân thật, cao cả, vĩ đại, nên vô cùng quý báu, có trị bội phần hơn.

Di sản đức tin Cơ Đốc đến từ trời, còn di sản thiên nhiên, văn hóa đến từ đất. Di sản văn hóa chỉ là tạm thời, nhưng di sản đức tin Cơ Đốc là đời đời, bởi vì Đức Chúa Trời là Đấng hằng hữu và lời của Ngài còn đến đời đời. Tuy nhiên, dường như ngay cả Cơ Đốc nhân cũng chưa đánh giá đúng mức giá trị vô cùng quý báu của di sản đức tin Cơ Đốc, cho nên cũng chưa tự hào đủ và chưa nỗ lực bảo tổn và phát huy di sản mà mình có, thậm chí còn coi thường di sản đức tin Cơ Đốc và “đánh đồng” với các di sản văn hóa, tín ngưỡng khác. Thật ra, di sản đức tin Cơ Đốc có những nét đặc trưng vượt trội hơn nhiều so với các di sản văn hóa, tôn giáo truyền thống nhưng rất tiếc nhiều người chưa hề biết đến. Người Việt Nam thường tự hào về di sản văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống lâu đời của Á đông như Phật, Lão, Nho. Nói về phương diện tư tưởng, triết học là sự khôn ngoan của con người thì Tam giáo có lẽ đã đạt đến trình độ suy tư sâu sắc, làm thỏa mãn lý trí, tư duy của con người. Tuy nhiên xét cho cùng thì những tư tưởng, triết lý ấy cũng chẳng đi tới đâu cả, và cuối cùng cũng chẳng biết đâu là chân lý. Sự khôn ngoan đó theo Kinh Thánh cũng chỉ là “sự khôn ngoan thuộc về đất, về xác thịt” chứ không phải sự khôn ngoan thuộc về trời, “từ trên mà xuống” (Gia-cơ 3:15, 17). Vì thế nó cũng chẳng giúp ích gì cho sự cứu rỗi linh hồn. Sự khôn ngoan đó không giúp chúng ta biết về một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật và sự cứu rỗi chắc chắn, đúng như Kinh Thánh khẳng định. “Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Công Vụ 4:12).

Nhưng tiếc thay, cũng có nhiều người lầm tưởng đó là chân lý tuyệt đối và say sưa nghiên cứu, học hỏi để rồi cuối cùng thất vọng. Đó là trường hợp của nhà văn kiêm học giả nổi tiếng Lâm Ngữ Đường mà giới trí thức Việt Nam từng ngưỡng mộ. Tuy xuất thân từ một gia đình có truyền thống Cơ Đốc, Lâm Ngữ Đường đã sớm từ bỏ di sản quý báu đó để đi tìm chân lý. Tuy nhiên, cám ơn Chúa, sau ba mươi năm say sưa nghiên cứu Nho giáo, Phật giáo và các tư tưởng, triết học Đông phương với hy vọng tìm được sự thỏa mãn cho khát vọng tri thức của mình, Lâm Ngữ Đường đã thất vọng và quay trở lại với Cơ Đốc giáo vào khoảng thập niên sáu mươi của thế kỷ 20. Ông đã thú nhận: “Trở về với Kinh Thánh, tôi thấy Kinh Thánh không chỉ là quyển sách ghi lại những dữ kiện lịch sử, nhưng cũng ghi lại sự mạc khải chính xác qua Chúa Giê-xu; chính sự mạc khải đó đã đem Thượng Đế xuống ngang tầm mắt tôi để tôi có thể nhận biết Ngài.” (Conversions- The Christian Experience, 1985). Ông cũng đã chia sẻ kinh nghiệm này trong cuốn sách “Từ Người Ngoại Trở Thành Cơ Đốc Nhân” (From Pagan to Christian (1959). Tiếc thay, nhiều nhà trí thức, nhà thơ, văn ở Việt Nam cũng có những ngộ nhận tương tự. Họ tự hào và tôn sùng những giá trị tôn giáo và triết học truyền thống và say sưa nghiên cứu, nhưng đến cuối cuộc đời, dường như họ vẫn không tìm thấy một câu giải đáp thỏa đáng cho những trăn trở về ý nghĩa cuộc đời, bởi lẽ mục đích, ý nghĩa cuộc đời không phải do suy đoán, triết lý, mà là một mạc khải từ Đức Chúa Trời, Đấng tạo dựng muôn loài vạn vật. Cho nên sau bao nhiêu năm ngưỡng mộ và say sưa nghiên cứu tư tưởng triết học truyền thống, Bùi Giáng, nhà thơ khá nổi tiếng ở Miền Nam trước 1975 được nhiều người kính trọng đã viết mấy câu thơ đầy thất vọng:

“Ngày sẽ hết, tôi sẽ không ở lại.

Tôi ra đi mà không biết đi đâu.

Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi.

Vì nơi đây tôi đã sống với vui sầu.” (Bài Phụng Hiến).

Tiếc thay ông đã không có dịp đến với đức tin Cơ Đốc, một di sản quý báu mà ông chưa từng biết hoặc có thể ông bị định kiến hay ngạo mạn coi thường chăng.

Vì thế, chúng ta phải cám ơn Chúa vì Ngài đã ban cho chúng ta một di sản đức tin vô cùng quý báu nhờ đó chúng ta có sự cứu rỗi và một niềm hy vọng sống trong Chúa Giê-xu; Ngài là “đường đi, chân lý và sự sống.” Đúng như Lâm Ngữ Đường đã nói khi quay về với Cơ Đốc giáo “không ai dám nói như Chúa Giê-xu cả.”

 Đức tin không di truyền mà lưu truyền qua việc dạy dỗ

Đức tin Cơ Đốc đòi hỏi một một sự xác tín mạnh mẽ và có tính cá nhân. Không phải cha tin Chúa tốt thì con đương nhiên sẽ tốt. Kinh Thánh ghi lại nhiều trường hợp cho chúng ta thấy rõ điều này: Cha tốt nhưng con xấu (vua Ê-xê-chia – Ma-na-se); Cha xấu nhưng con tốt ( vua A-môn – Giô-si-a); Cha xấu và cũng con xấu (vua Ôm-ri – A-háp); cha tốt và con tốt (A-sa – Giô-sa-phát). Như vậy đức tin không di truyền cho con cháu, mà phải lưu truyền qua việc dạy dỗ của cha mẹ cho thế hệ tiếp nối.

 Để biết Chúa và tin cậy nơi Ngài (c. 6, 7)

Mục đích của sự lưu truyền di sản đức tin là để cho con cháu chúng ta nhận biết một Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật để chúng tin cậy nơi Ngài. Vì nếu chúng không biết rõ Chúa thì chúng cũng không hết lòng tin cậy Ngài và đức tin đã bị mất đi. Kinh Thánh chép “Dân bị diệt vì cớ thiếu sự thông biết.” (Ô-sê 4:6)

 Tránh vết xe đổ (đức tin bị phá sản) (c. 8)

“tránh vết xe đổ của tổ phụ ” (BDM) tức là bị phá sản.

Cuối cùng, lý do chúng ta phải lưu truyền di sản đức tin để tránh vết xe đổ của tổ phụ, là những thế hệ đi trước nhưng không tin kính, “cố chấp”, “phản nghịch”. Thật vậy, Kinh Thánh đã ghi lại tổ phụ dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa đã bội nghịch, không tin kính và bị Chúa đoán phạt.

Ngày nay, Hội Thánh Chúa coi chừng lại rơi vào vết xe đổ của dân Y-sơ-ra-ên. Nước Mỹ vốn có một di sản đức tin Cơ Đốc quý báu và nhờ đó Chúa đã ban phước cho dân tộc Mỹ được thịnh vượng, hùng cường. Tuy nhiên, thống kê những năm gần cho thấy ở Mỹ, có tới 70% các em thiếu niên không biết đến Đức Chúa Trời và không còn niềm tin nơi Chúa nữa. Ở châu Âu, nhiều nhà thờ bỏ trống và phải bán cho Hồi giáo. Di sản Cơ Đốc đang có nguy cơ bị phá sản.

Tiên tri Giê-rê-mi đã nói tiên tri về ngày thành Giê-ru-sa-lem bị kẻ thù tấn công và phá hủy như sau: “Vì sự chết đã lên vào cửa sổ chúng ta, đã sấn vào trong cung chúng ta, giết con cái tại ngoài đường, và kẻ trai trẻ giữa chợ” (Giê-rê-mi 9:21). Lời tiên tri này có thể đang ứng nghiệm một lần nữa trong xã hội hiện đại chúng ta qua những phương tiện khoa học kỹ thuật hiện đại, truyền thông internet. Khoa học, kỹ thật hiện đại cũng là con dao hai lưỡi, có lợi nhiều mà hại cũng không ít. Đức tin Cơ Đốc của con em chúng ta đang bị bào mòn, phá hủy vì những ảnh hưởng độc hại qua Internet, di động. Sự chết ngày ngày nay đã leo qua cửa sổ “Window” của Internet và giết chết con cái chúng ta ngoài đường, thanh niên ở giữa phố chợ. Coi chừng ảnh hưởng nguy hại của Internet giết chết con em chúng ta đó.

LƯU TRUYỀN DI SẢN ĐỨC TIN BẰNG CÁCH NÀO? (1-3, 5b)

Có nhiều cách để chúng ta lưu truyền di sản đức tin mà Kinh Thánh cũng đã dạy dỗ chúng ta. Ở đây chúng ta suy nghĩ bốn điều cần phải làm để lưu truyền di sản đức tin mà tác giả Thi Thiên 78 chỉ cho chúng ta.

 Mở miệng (c. 2): KT chép “đức tin đến bởi sự người ta nghe; mà người ta nghe là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10:17) Nếu không mở miệng nói cho con cháu mình biết về Chúa thì làm sao chúng có đức tin. Sự truyền thông qua lời nói là phương cách phổ biến và cần thiết để lưu truyền di sản đức tin.

 Giải bày (c. 2b)

“Giải bày những huyền nhiệm” (Bản TTHĐ) tức cắt nghĩa cho chúng hiểu những chân lý sâu nhiệm trong Kinh Thánh, những phép lạ, những việc quyền năng mà mình trải nghiệm. Đây là kỹ năng mà các bậc phụ huynh và thầy giáo phải rèn luyện để cắt nghĩa, giải thích một cách đơn giản dễ hiểu cho trẻ em về những giáo lý, lẽ đạo sâu nhiệm trong Kinh Thánh.

 Thuật lại (c. 4)

Thuật lại, tức làm chứng lại những gì Chúa đã làm trên đời sống cá nhân, gia đình và Hội Thánh. Những lời làm chứng về những việc lạ lùng mà Chúa đã làm có tác dụng nuôi dưỡng đức tin mạnh mẽ. Sự làm chứng như thế sẽ giúp con em chúng ta thấy rằng đức tin Cơ Đốc là đức tin năng động, sống động chứ không phải là đức tin chết. Đức tin của con cái chúng ta sẽ lớn lên khi nghe những lời làm chứng của chúng ta và thêm lòng tin cậy nơi Chúa.

 Dạy lại cho con cháu mình (c. 5b)

Phương cách cơ bản để lưu truyền đức tin cho con cháu là dạy. Cơ Đốc giáo là tôn giáo mang tính giáo dục cao nhất vì nhấn mạnh việc dạy đạo, môn đệ hóa tín hữu. Dạy gì và dạy như thế nào cho con em chúng ta một cách hiệu quả là trách nhiệm của những người làm công tác Cơ Đốc giáo dục và các vị lãnh đạo Hội Thánh. Kinh Thánh dùng nhiều động từ khác nhau liên quan đến việc dạy rất sâu sắc và thú vị mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở đây chúng ta chỉ nói đến hai động từ trong Hy Bá Lai về dạy.

Trước hết, Châm Ngôn 22:6 chép “Hãy dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo; dầu khi nó trở về già, cũng không hề lìa khỏi đó.” . Động từ CHA-NAK ở đây là đào tạo, huấn luyện. Phải dạy cho con em về Chúa và đường lối Chúa. Đường lối Chúa là quan niệm, triết lý, giá trị, lối sống theo Kinh Thánh. Nếu không dạy dỗ huấn luyện con em đi theo đường lối Chúa thì có thể chúng vẫn đi nhà thờ, xưng mình là Cơ Đốc nhân nhưng lối sống lại theo quan điểm và triết lý thế gian. Theo thống kê quốc gia về tình trạng hôn nhân gia đình Việt Nam năm 2008 thì nguyên nhân ly hôn chiếm tỉ lệ cao nhất ở Việt Nam hiện nay không phải là ngoại tình hay bạo hành gia đình mà là xung đột về lối sống. Điều này rất đáng cho chúng ta suy nghĩ. Không ít những vụ ly hôn trong Hội Thánh hôm nay là do xung đột về lối sống mặc dù họ vẫn xưng mình là Cơ Đốc nhân, cùng ngồi trên những băng ghế nhà thờ.

Đặc biệt trong phân đoạn Kinh Thánh Phục Truyền 6:4-9 mà người Do Thái gọi là SHÊ-MA (hãy nghe). Dựa vào lời dạy dỗ này, người Do Thái dạy con em phải thờ phượng một Đức Chúa Trời duy nhất; phải hết lòng, hết ý, hết sức mà kính mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời và yêu người lân cận như mình. Động từ dạy ở đây là SHA-NAN (c. 7) Đây là một từ Hy Bá Lai rất khó dịch, có nghĩa là khắc ghi, ghi lòng tạc dạ. Trong bản dịch 1926, các cụ đã dựa theo bản Hán văn “ân cần giáo huấn” để dịch là “ân cần dạy dỗ” rất là đạt, nhằm lột tả ý nghĩa của động từ đặc biệt này. Bản Kinh Thánh tiếng Anh NIV dịch là “impress them on your children” “khắc sâu, gây ấn tượng”. Dạy như thế nào là khắc sâu, gây ấn tượng cho con em đây? Thiết tưởng lối dạy khó nhất, gây ấn tượng sâu sắc nhất là dạy bằng chính gương mẫu của mình. Đó cũng là cách dạy của Chúa Giê-xu khi Ngài dạy về sự khiêm nhường, hạ mình phục vụ trong Giăng 13:1-20. “Ngài đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng. Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu và rửa chân cho các môn đồ, lại lấy khăn mà mình đã vấn mà lau chân cho” (c. 4-5). Có lẽ các môn đệ của Chúa suốt đời sẽ không bao giờ quên sự dạy dỗ này vì nó gây một tượng rất sâu sắc.

Đó cũng là cách của vua Đa-vít dạy con là Sa-lô-môn: “Còn ngươi, Sa-lô-môn, con trai ta, hãy nhận biết Đức Chúa Trời của cha, hết lòng vui ý mà phục sự Ngài…” (1 Sử Ký 28:9b). Đa-vít không nói hãy nhận biết Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, của Gia-cốp, mà là Đức Chúa Trời của cha, một Đức Chúa Trời quyền năng, yêu thương, nhân từ, thành tín mà cha đã kinh nghiệm. Ôi! ước chi chúng ta đều có thề nói như thế với con cháu của mình. Xin Chúa giúp đỡ để chúng ta có thể dạy con em mình như Kinh Thánh đã dạy, chắc chắn di sản đức tin sẽ được bảo tồn, phát huy và lưu truyền một cách vững chăc cho các thế hệ mai sau.

Tóm lại, di sản đức tin Cơ Đốc quả thật là một di sản độc đáo, vô cùng quý báu mà con người không tìm đâu ra ngoại trừ đến với Cơ Đốc giáo. Chúng ta được đặc ân thừa hưởng một di sản đức tin quý báu như thế nên chúng ta hãy nhờ ơn Chúa ra sức bảo tồn, phát huy và lưu truyền cho “dòng dõi hậu lai” và cũng cố gắng chia sẻ di sản đó cho đồng bào và đồng loại nữa. Tuy nhiên, di sản hay phá sản là tùy thuộc vào nhận thức và hành động của chúng ta hôm nay.

Xin Chúa cho mỗi chúng ta hãy cầu nguyện như tác giả Thi Thiên đã cầu nguyện “Lạy Đức Chúa Trời, dù khi con đã già và tóc bạc rồi, xin Chúa đừng từ bỏ con; cho đến khi con rao truyền sức mạnh của Ngài cho thế hệ mai sau, và quyền năng Ngài cho dòng dõi kế tiếp.” Thi Thiên 71:18 (Bản TTHĐ).