Duyệt bởi
Tag: hoithanhmennonite

Đại hội đồng lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam – Năm 2016

Đại hội đồng lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam – Năm 2016

Đại hội đồng lần thứ III

Hội thánh Mennonite Việt Nam

QUỐC ĐỊNH

Với chủ đề “Giữ gìn sự hiệp một của Thánh linh”, Đại hội lần thứ III Hội thánh Mennonite Việt Nam bao gồm các nội dung: Bồi linh – Thông công, báo cáo nhiệm kỳ (2012 – 2016), bầu cử Ban Trị sự nhiệm kỳ 2016-2020, thông qua kế hoạch công tác nhiệm kỳ tới.

Từ ngày 1-2/12, tại TP HCM, Hội thánh Mennonite Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ III. Tới tham dự có ông Hà Ngọc Anh, Phó Trưởng Ban Dân vận Trung ương; Ông Trần Tấn Hùng, Phó Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ; đại diện Cục An ninh Xã hội, Bộ Công an; đại diện các cơ quan, ban ngành TP HCM; các đại biểu nước ngoài; 258 đại biểu chính thức, 30 đại biểu không chính thức và hàng trăm đại biểu dự thính là các tín đồ trong Hội thánh từ 24 tỉnh, thành phố.

Với chủ đề “Giữ gìn sự hiệp một của Thánh linh”, Đại hội bao gồm các nội dung: Bồi linh – Thông công, báo cáo nhiệm kỳ (2012 – 2016), bầu cử Ban Trị sự nhiệm kỳ 2016-2020, thông qua kế hoạch công tác nhiệm kỳ tới.

Đại diện Ban tổ chức, cho biết, trong nhiệm kỳ vừa qua (2012 – 2016), Hội thánh đã đạt được nhiều kết quả trong công tác tổ chức, hoạt động mục vụ, bồi dưỡng đào tạo, tấn phong mục sư, xây dựng nhà nguyện, truyền giáo, từ thiện xã hội…

Hệ phái Tin lành Mennonite ra đời cùng với phong trào cải cách tôn giáo ở châu Âu vào thế kỷ XVI, và hoạt động ở miền Nam Việt Nam từ 1954. Sau năm 1975 các giáo sỹ và nhân viên nước ngoài rút về nước. Từ 1981 tổ chức Ủy ban Trung ương Mennonite – MCC trở lại hoạt động viện trợ nhân đạo ở Việt Nam. Năm 1991, MCC được Chính phủ Việt Nam cho lập văn phòng đại diện tại Hà Nội. Đầu năm 1983, mục sư Nguyễn Quang Trung tái lập lại các hoạt động của Hội thánh Mennonite Việt Nam.

Đến nay, Hội thánh Mennonite Việt Nam có trên 10.000 tín đồ, 178 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo, 5 chi hội, 1 hội nhánh, 87 điểm nhóm, phạm vi ở 25 tỉnh, thành phố trong cả nước, tập trung đông nhất ở các tỉnh Gia Lai, Bình Phước, Quảng Ngãi, TP HCM.

Thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, sự chấp thuận của các cấp chính quyền, Hội thánh Mennonite Việt Nam tổ chức Đại hội đồng lần thứ nhất vào năm 2008. Sau đó, Hội thánh đã được Nhà nước công nhận về mặt tổ chức ngày 5/2/2009.

Phát biểu tại đây, ông Trần Tấn Hùng đánh giá: Dưới sự lãnh đạo của Ban Trị sự Tổng hội và mục sư Hội trưởng Nguyễn Quang Trung dẫn dắt, Hội thánh Mennonite Việt Nam đã cơ bản vượt qua những khó khăn, từng bước củng cố và hoàn thiện trong các hoạt động mục vụ và luôn chứng tỏ là một Hội thánh độc lập, gắn bó với dân tộc.

Các chức sắc, chức việc và tín hữu của Hội thánh đã cùng đồng bào các tôn giáo khác và đồng bào cả nước tích cực tham gia các phong trào lao động sản xuất, xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa mới và hưởng ứng các phong trào đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo…đóng góp phần mình vào sự nghiệp chung của đất nước.

Ông Hùng mong rằng, tín đồ, chức sắc của Hội thánh tiếp tục phát huy kết quả đạt được, đồng thời luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực xấu. Hội thánh sẽ tiếp tục phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước, đóng góp nhiều hơn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh.

Cũng theo ông Hùng, chính sách nhất quán trước sau như một của Nhà nước là tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật và không có sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo; đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích những hoạt động tôn giáo tiến bộ vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân.

Nhà nước ủng hộ nguyện vọng của Hội thánh Mennonite Việt Nam xây dựng Hội thánh theo tôn chỉ, mục đích và đường hướng hoạt động đã được trịnh trọng xác định trong Hiến chương của Hội thánh thông qua tại Đại hội lần thứ nhất “Sống phúc âm, phụng sự Thiên chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”.

nguồn: http://daidoanket.vn/dai-hoi-dong-lan-thu-iii-hoi-thanh-mennonite-viet-nam-138294.html

 

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Hội thánh Mennonite Việt Nam

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Hội thánh Mennonite Việt Nam

Trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho

Hội thánh Mennonite Việt Nam

Hội thánh được hình thành từ năm 1957, tái lập vào năm 1983, hoạt động với đường hướng tiến bộ là “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”.

Sáng 11/2, Lễ trao quyết định công nhận tổ chức Hội thánh Mennonite Việt Nam đã được tổ chức tại trụ sở Ban Tôn giáo Chính phủ (Hà Nội).
Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ Nguyễn Thế Doanh đã trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo cho Mục sư Nguyễn Quang Trung (người đại diện, Hội trưởng Hội thánh Mennonite Việt Nam). Theo đó, Hội thánh Mennonite Việt Nam được hoạt động tôn giáo theo pháp luật Việt Nam và Hiến chương đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận, trụ sở tạm thời tại 67/107 Bùi Đình Túy (phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh).

Trải qua hơn 20 năm tồn tại và phát triển, Hội thánh Mennonite Việt Nam một mặt vẫn duy trì sinh hoạt tôn giáo liên tục, một mặt đã thể hiện lòng yêu nước gắn bó với dân tộc, cầu nguyện cho hòa bình, công bằng, bác ái, sống tốt đời đẹp đạo, góp phần xây dựng đời sống tinh thần và đạo đức xã hội.

Hiện nay, Hội thánh có trên 6.000 tín đồ, 137 mục sư, mục sư nhiệm chức, truyền đạo, 90 điểm nhóm hoạt động ở 24 tỉnh thành phố trong cả nước, là một trong những tổ chức hệ phái Tin lành có số tín hữu sinh hoạt trên địa bàn rộng.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Nguyễn Thế Doanh nhiệt liệt chúc mừng và chia vui với mục sư Hội trưởng, các thành viên Ban trị sự Tổng Giáo hội, toàn thể tín đồ, chức sắc của Hội thánh và nhấn mạnh lễ trao quyết định công nhận tổ chức tôn giáo là dấu mốc quan trọng, đánh dấu từ thời khắc này, Hội thánh Mennonite Việt Nam có đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của một tố chức tôn giáo hoàn chỉnh. Đây là cơ sở vững chắc cho việc tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc để cùng chung tay, góp sức xây dựng đất nước ngày một văn minh, giàu đẹp.

Ông Nguyễn Thế Doanh mong muốn với vị thế mới, trên cơ sở phát huy truyền thống gắn bó cùng dân tộc, bằng việc tuân thủ pháp luật, hành đạo theo đường hướng tiến bộ, Hội thánh sẽ tiếp tục phát triển, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thay mặt Ban trị sự Tổng Giáo hội, mục sư Nguyễn Quang Trung bày tỏ sự vui mừng khi Hội thánh Mennonite Việt Nam chính thức được nhận quyết định công nhận tổ chức tôn giáo. Mục sư chân thành cảm ơn Thủ tướng Chính phủ đã quan tâm, chăm lo cho các hệ phái tôn giáo trong đó có Hội thánh; gửi lời cảm ơn tới các cấp, ngành, chính quyền các địa phương nhiệt tình hỗ trợ trong quá trình đăng ký hoạt động.

* Trong sáng 11/2, Ban trị sự Hội thánh Mennonite Việt Nam do mục sư Nguyễn Quang Trung dẫn đầu đã đến chào thăm Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc (TƯ MTTQ) Việt Nam.

Thay mặt Ủy ban TƯ MTTQ, ông Trần Đình Phùng, Ủy viên thường trực chúc mừng Hội thánh được trao quyết định chính thức công nhận; việc làm thể hiện sự quan tâm, tôn trọng của Đảng, Nhà nước ta tới quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tổ chức, cá nhân, đáp ứng nguyện vọng của đồng bào có đạo.

Thường trực Ủy ban TƯ MTTQ biểu dương những đóng góp của Hội thánh trong thời gian qua và mong muốn Hội thánh tiếp tục phát huy truyền thống, những giá trị tốt đẹp của tôn giáo mình, thực hiện đoàn kết, gắn bó, sống tốt đời, đẹp đạo; xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phát triển KT-XH để đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Khẳng định mọi tôn giáo đều bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, đất nước có hòa bình, nâng cao vị thế thì các tôn giáo mới có điều kiện phát triển, Thường trực Ủy ban TƯ MTTQ tin tưởng sau khi được công nhận tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân, Hội thánh sẽ hoạt động tốt trên mọi lĩnh vực, thực hiện phương châm đồng hành cùng dân tộc, cùng các tôn giáo khác đoàn kết thực hiện đại đoàn kết dân tộc.

Mục sư Nguyễn Quang Trung thay mặt Ban trị sự Hội thánh cảm ơn Ủy ban TƯ MTTQ có sự điều hành thóng nhất từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố, hỗ trợ cho tôn giáo về đoàn kết chung. Nêu rõ Hội thánh Mennonite Việt Nam vừa lo công việc Hội thánh, vừa tham gia công việc xã hội, giúp đỡ đồng bào, mục sư Hội trưởng tin rằng trong tương lai Hội thánh sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Ủy ban TƯ MTTQ.

* Chiều cùng ngày, Ban trị sự Hội thánh Mennonite Việt Nam do mục sư Nguyễn Quang Trung dẫn đầu đã đến chào thăm Ban Dân vận Trung ương.

Thay mặt Ban Dân vận Trung ương, Phó Trưởng ban Nguyễn Mạnh Hùng chúc mừng Hội thánh được trao quyết định chính thức công nhận và biểu dương những đóng góp của Hội thánh trong việc vận động các tín hữu tích cực tham gia phát triển kinh tế-xã hội, sống tốt đời, đẹp đạo, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng bền vững.

Phó Trưởng ban Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh: Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mỗi cá nhân, mọi tôn giáo đều bình đẳng và hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và tin tưởng với phương châm đồng hành cùng dân tộc, Hội thánh sẽ tiếp tục có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Thay mặt Ban trị sự, Mục sư Nguyễn Quang Trung cảm ơn Ban Dân vận Trung ương đã giúp đỡ Hội thánh, nhất là trong quá trình đăng ký hoạt động. Mục sư Nguyễn Quang Trung khẳng định: với đường hướng “Sống phúc âm, phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc và đồng hành cùng dân tộc”, Hội thánh sẽ tiếp tục vận động các tín hữu sống tốt đời, đẹp đạo, tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, góp sức xây dựng đất nước ngày một văn minh, giàu đẹp./.

nguồn: https://vov.vn/chinh-tri/trao-quyet-dinh-cong-nhan-to-chuc-ton-giao-cho-hoi-thanh-mennonite-viet-nam-104883.vov

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Bài 2: Kinh Thánh Là Gì ? (Phần 2)

Nguồn: Đài Xuyên Thế Giới

 

Kinh thánh là một tuyển tập gồm 66 sách. Vì sao tuyển tập nầy được gọi là thánh? Chữ thánh chỉ những điều “thuộc về Đức Chúa Trời”, “đến từ Đức Chúa Trời” hoặc “có liên hệ với Đức Chúa Trời.” Đức Chúa Trời là cội nguồn. Đây chính là ý niệm của chữ “thánh”. Theo đó, “thánh” với ý nghĩa chính là chỉ điều thuộc về Đức Chúa Trời. Sở dĩ bộ 66 sách nầy được gọi là thánh, vì nó xuất phát từ Đức Chúa Trời và thuộc về Đức Chúa Trời. Nó chứa đựng thông điệp của Đức Chúa Trời cho nhân loại.

 

Để truyền đạt thông điệp đó, Ngài cảm động khoảng 40 trước giả để viết nên Kinh thánh. Các trước giả đã được cảm động để những lời họ viết ra không phải là của họ, nhưng là lời của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh đã được viết trong suốt thời gian khoảng 1500 năm đến 1600 năm.

 

Tiến trình mà Đức Chúa Trời cảm động các trước giả để viết nên Kinh thánh gọi là sự linh cảm, hoặc cảm động, hoặc cảm thúc. Phao-lô nói rằng, những cuốn sách nầy đến từ Đức Chúa Trời bởi sự linh cảm. Từ ngữ “linh cảm” có nghĩa là “thổi vào”. Chính Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời thổi vào hay hà hơi vào những người nầy, cảm thúc họ viết nên Kinh thánh. Phi-e-rơ nói về Kinh thánh như thế nầy: “Vả, khi chúng tôi đã làm cho anh em biết quyền phép và sự đến của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta, thì chẳng phải là theo những chuyện khéo đặt để, bèn là chính mắt chúng tôi đã ngó thấy sự oai nghiêm Ngài. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào là bởi ý một người nào mà ra, nhưng ấy là bởi Đức Thánh Linh cảm động mà người ta đã nói bởi Đức Chúa Trời.” (2 Phi-e-rơ1:16,21)

Trong khi sứ đồ Phao-lô trình bày về tiến trình hà hơi hay linh cảm, Phi-e-rơ giải thích linh cảm có ý nghĩa gì. Phi-e-rơ nói  rằng: Sứ điệp mà các trước giả viết trong Kinh thánh không xuất phát từ họ mà bắt nguồn từ Đức Chúa Trời. Tất cả mọi sứ điệp viết trong Kinh thánh đều được linh cảm và xuất phát từ Đức Chúa Trời. Chính Ngài truyền đạt những sứ điệp nầy cho con người bởi sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh.

 

Phi-e-rơ dùng một chữ rất hay trong tiếng Hy Lạp, đó là chữ “phe-rô”. Từ chữ nầy mà chúng ta có chữ “ferry” nghĩa là phà hay thuyền. Đây là chữ mà Phi-e-rơ dùng khi ông diễn tả việc Đức Chúa Trời cảm động lòng những người viết Kinh thánh, như hình ảnh của gió thúc đẩy chiếc thuyền đi tới. Đó chính là ý nghĩa của chữ  linh cảm hay hà hơi theo Phi-e-rơ.

 

Nhóm từ “Lời hằng sống của Đức Chúa Trời” không được áp dụng cho Kinh thánh nhưng cho Chúa Jêsus. Kinh thánh được gọi là “Lời thành văn của Đức Chúa Trời”, song Chúa Jêsus được gọi là “Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời”. Mọi điều thuộc về Ngài, mọi lời Ngài nói, mọi việc Ngài làm chính là lời của Đức Chúa Trời phán với chúng ta. Đức Chúa Trời đã nói nhiều điều rất quan trọng cho chúng ta qua Kinh thánh; song Ngài còn nói nhiều điều quan trọng hơn nữa cho chúng ta qua con Ngài là Chúa Jêsus Christ. Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho loài người qua đời sống và sự giảng dạy của Chúa Jêsus hơn bất cứ cách nào khác. Do đó, Chúa Jêsus được gọi là “Lời Hằng sống của Đức Chúa Trời”.

 

Chúng ta nghe có người nói rằng, “Ông mục sư đó thật sự giảng lời của Đức Chúa Trời.” Sự giảng dạy lời Đức Chúa Trời đem lại những phép lạ lớn lao. Có người diễn tả thế nầy: Khi Lời của Đức Chúa Trời được rao giảng, Đức Thánh Linh dùng lời của Ngài được truyền đạt qua tôi tớ của Ngài để biến người nghe trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Sứ đồ  Phao-lô nói rằng, “Đức Chúa Trời lấy làm vui  lòng dùng sự giảng rồ dại của chúng ta mà cứu rỗi những người tin cậy.” (1 Côr 1:21b).  Phao-lô không thể hiểu được điều nầy, nhưng ông tin chắc chắn điều đó và tận hiến cuộc đời để rao giảng Phúc âm.  Khi Phao-lô đến một nơi nào và tuyên bố Tin lành của Chúa Jêsus, ông khám phá rằng, Lời của Đức Chúa Trời hay là sứ điệp của Đức Chúa Trời được rao giảng bởi người của Ngài, là người được cai trị bởi Thánh Linh của Đức Chúa Trời thì nhiều người được cứu.

 

Bây giờ, tôi xin trình bày vài điều về cách cấu tạo của Kinh thánh. Chúng ta sẽ bắt đầu với những bước rất là căn bản. Nếu quí vị là người đã nghiên cứu Kinh thánh rồi, xin kiên nhẫn vì trong một vài chương sắp tới sẽ có những bài phù hợp với trình độ của quí vị.  Điều quan trọng cần biết: đó là 66 sách của Kinh thánh không được sắp xếp theo thứ tự thời gian được viết ra, hoặc thời gian các tác giả đã sinh sống. Sáu mươi sáu sách của Kinh thánh được sắp xếp trên căn bản từng loại sách và được chia làm hai phần: một phần gọi là Cựu ước gồm 39 sách, phần kia gọi là Tân ước gồm 27 sách. Trong thời Chúa Jêsus chưa có Tân ước, nên Kinh thánh chỉ có Cựu ước. Khi Tân ước đã được viết ra và được kết hợp với Cựu ước thì có sự phân biệt giữa Cựu ước và Tân ước.

 

Sứ điệp chính yếu của Cựu ước là Chúa Jêsus sắp đến; còn sứ điệp của Tân ước là Chúa Jêsus đã đến. Theo Kinh thánh, lúc ban đầu Đức Chúa Trời và loài người sống hòa hợp với nhau. Song, Đức Chúa Trời tạo nên con người là một tạo vật có khả năng lựa chọn và con người đã lựa chọn khước từ Đức Chúa Trời thay vì vâng phục Ngài. Bởi vì Đức Chúa Trời không chấp nhận sự bất tuân và nổi loạn nên con người không còn được ở trong mối tương giao với Ngài như lúc ban đầu. Con người bị đuổi ra khỏi sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Đây chính là nan đề căn bản mà các cuốn sách Thánh đề cập đến.

 

Trong Cựu ước, Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng, “Ta có một  giải pháp về tình trạng chia cách giữa Ta và ngươi, ngươi có tin ta không?” Trong  Tân ước, Đức Chúa Trời nói với chúng Ta, “Ta đã hoàn thành một giải pháp về tình trạng phân cách giữa Ta và ngươi, vậy ngươi có tin Ta không?” Quí vị thấy không, Cựu ước nói rằng Chúa Jêsus sắp đến và Ngài sẽ hòa giải vấn đề phân cách giữa Đức Chúa Trời và tạo vật của Ngài. Còn Tân ước thông báo tin tức tốt lành nầy đã trở thành hiện thực, Chúa Jêsus đã đến và Ngài đã hòa giải giữa Đức Chúa Trời và con người. Phúc âm Mác đúc kết cả Tân ước qua câu “Chúa Jêsus đã đến.”

 

Bây giờ, chúng ta tìm hiểu khái quát về Cựu ước. Cựu ước gồm có 5 loại sách khác nhau. Trước tiên là năm cuốn sách Luật pháp, do chính Đức Chúa Trời phán dạy. Qua các sách Luật pháp, Chúa nói với chúng ta điều gì đúng, điều gì sai. Chúa dạy cho chúng ta về tiêu chuẩn công nghĩa của Ngài.

 

Năm sách luật pháp được nối tiếp bởi mười sách lịch sử. Mười sách lịch sử cho biết rằng, có khi dân sự của Đức Chúa Trời tuân thủ các điều luật Chúa, có khi họ bất tuân. Khi tuân thủ luật pháp Chúa, dân sự của Đức Chúa Trời được phước và trở nên gương tốt để chúng ta noi theo. Khi bất tuân, họ bị sửa phạt và trở nên điều cảnh cáo cho chúng ta là những người sống vào thời kỳ cuối cùng.

 

Câu Kinh thánh I Côr 10:11 là chìa khóa cho những sách lịch sử:

Những sự ấy có nghĩa hình bóng, và họ đã lưu truyền để khuyên bảo chúng ta là kẻ ở gần cuối cùng các đời.

Khi đọc những sách lịch sử, chúng ta tìm xem các gương tốt để noi theo và những gương xấu để tránh xa.

 

Tiếp theo các sách lịch sử là các sách thơ văn. Các sách thơ văn là sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con cái Chúa khi họ áp dụng lời của Ngài vào trong cuộc sống hằng ngày. Qua các sách thơ văn, Đức Chúa Trời truyền sứ điệp của Ngài đến nơi sâu kín của lòng người. Ví dụ, sách Gióp là sứ điệp cho dân sự của Ngài khi họ đau khổ. Sách Thi thiên là sứ điệp cho dân sự của Ngài khi họ thờ phượng. Sách Châm ngôn là sứ điệp cho con cái Chúa khi họ va chạm với cuộc sống hằng ngày. Chúa muốn chúng ta có sự khôn ngoan thực tế trong quan hệ với mọi hạng người. Sách Truyền đạo là sứ điệp của Đức Chúa Trời cho con dân của Ngài khi họ có sự ngờ vực trong lòng. Sách Nhã ca là sứ điệp cho những người đang yêu nhau. Nó gồm những mẫu đối thoại yêu đương của cặp tình nhân trong những ngày hạnh phúc nồng thắm.

 

Phần tiếp theo các sách văn thơ của Cựu ước là phần nhiều nhất theo số chương và số câu. Nó được gọi là “Tiên tri”, và được phân làm hai theo kích thước. Một loại là các sách Tiên tri lớn và một loại là các sách Tiên tri nhỏ. Các sách được gọi là tiên tri lớn không phải vì nó cao sâu hơn hay quan trọng hơn; còn các sách gọi là tiên tri  nhỏ không phải vì nó thấp hơn hay thứ yếu, nhưng sự phân loại căn cứ trên độ dài của sách. Các sách tiên tri lớn có từ 48 chương cho đến 66 chương. Còn các sách tiên tri nhỏ có từ 1 chương, 2 chương hoặc 3 chương. Có lẽ, tác giả của các sách tiên tri nhỏ là những người trình bày gọn vì họ đã gói ghém sứ điệp của họ cô đọng hơn. Đó là phần khái quát của Cựu ước.

 

Trong Tân ước chúng ta cũng có 5 loại. Trước tiên có 4 sách nói về cuộc đời của Chúa Jêsus:  Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca và Giăng. Các cuốn sách nầy trình bày những khía cạnh khác nhau về một cuộc đời quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại: cuộc đời của Chúa Jêsus.

 

Thứ hai: sách lịch sử là sách Công vụ các sứ đồ, ghi chép lại lịch sử khai sinh và phát triển của Hội thánh đầu tiên trong thời các sứ đồ.

 

Thứ ba là các thư tín của Phao-lô và thứ tư là các thư tín tổng quát. Một nửa Tân ước gồm các thư tín của Phao-lô. Bên cạnh đó, có các thư tín tổng quát vì chúng được viết bởi các sứ đồ khác gởi cho các tín hữu, là những người tản mạn và sống ở những địa điểm khác nhau.

 

Tân ước kết thúc với loại thứ năm, một sách tiên tri là sách Khải huyền. Đó là sách gồm các biểu tượng. Chúng ta cần  Đức Thánh Linh dạy dỗ cách đặc biệt để hiểu đúng sách Khải huyền.

 

Vậy Kinh thánh có 66 sách. Những sách nầy không được sắp xếp theo thứ tự thời gian khi chúng được viết ra, nhưng theo nội dung từng loại sách. Có 5 loại sách trong Cựu ước: sách luật pháp, sách lịch sử, sách văn thơ sách tiên tri lớn và tiên tri nhỏ. Có 5 loại sách trong Tân ước: bốn sách Phúc âm, một sách lịch sử, thư tín của Phao-lô, thư tín tổng quát và một sách tiên tri là sách Khải huyền.

 

Sứ điệp của Cựu ước là Chúa Jêsus sắp đến; sứ điệp của Tân ước là Chúa Jêsus đã đến.

 

Bây giờ, bài tập đầu tiên dành cho quí vị: xin học thuộc lòng tên các sách trong Kinh thánh ở phần mục lục. Điều nầy giúp quí vị lật nhanh và đúng để tiện việc học biết lời Chúa.